Cuộc
Chiến Trầm Lặng
Vĩnh Hảo
Đây là khu phố sầm uất nhất của
người Việt di dân tại quận Cam, tiểu bang California. Từ thành phố Midway,
trên đường Bolsa, đi về hướng đông chừng nửa cây số đã thấy khu chợ của
người Việt phía bên phải. Khu này tập trung nhiều hàng quán, nhà hàng, siêu
thị, chợ trái cây tươi, nhà băng, cây xăng, v.v… lại có bãi đậu xe khá rộng,
thuận tiện để làm bến đỗ cho một công ty xe đò xuôi ngược Nam - Bắc
California. Vượt qua ngã tư, đi thêm một khoảng đường, sẽ đến khu thương xá
Phước Lộc Thọ. Bên trái bên phải đều là khu thương mại của người Việt. Thế
nên, không khí quanh đây vẫn mang một vẻ gì rất là Việt Nam, dù rằng các
tiện nghi về giao thông, truyền thông, kiến trúc, hệ thống điện, nước, ga,
v.v… đều ở tiêu chuẩn một quốc gia thịnh vượng bậc nhất thế giới. Phải chăng
vì tất cả bảng hiệu của các cửa tiệm đều mang tiếng Việt? hay vì ở một vài
thương xá có làm mái cong? hay vì cổng của một thương xá nọ giống như một
tam quan vào chùa? hay vì người trên những xe cộ qua lại cũng như khách bộ
hành chung quanh đa phần là người Việt Nam? hay vì đâu đó trong đám đông qua
đường, vẳng lên những tiếng, những câu, những từ đầy ắp tình tự “mấy nghìn
năm tiếng nước tôi”? Có thể là tất cả những thứ trên hợp lại. Nhưng cũng
không thể nào bỏ sót nét đặc trưng này: nỗi buồn câm lặng.

"Quay lưng" by John Chuong Nguyen
Hãy quan sát kỹ những khuôn mặt
Việt Nam trên phố Bolsa. Họ thuộc nhiều thế hệ khác nhau đến định cư nơi đất
này. Có những người đã trên tám mươi, và có những người còn trẻ, từ sơ sinh
cho đến ba mươi, được sinh ra và trưởng thành trên đất nước này. Kẻ già thì
rũ người xuống với gánh nặng của thân phận và một quá khứ vàng son đã mất,
hoặc vì nỗi bơ vơ lạc lõng ở chốn tha hương, nơi ấy mất dấu những hình bóng
thân quen ngày cũ; người trẻ thì vươn mình lên với hứa hẹn tương lai tưởng
chừng không có gì ngăn trở trong đời sống phồn thịnh văn minh và đầy đủ
những cơ hội tiến thân, đầy đủ những thứ quyền để tự vệ, tự tồn. Nhưng trên
những khuôn mặt bi quan hay lạc quan ấy vẫn vương vấn một nỗi buồn nào đó.
Có thể không phải là nỗi buồn, mà là sự biểu hiện một cách vô thức những
phản ứng, tập quán và tập khí với bề dày thời gian mấy nghìn năm của một
cộng đồng dân tộc phải đấu tranh, chiến đấu, với thiên nhiên khắc nghiệt,
với sự nghèo cùng triền miên, với giặc ngoại xâm, và với những chế độ chính
trị tàn độc, phi nhân.
Hãy cứ gọi đó là nỗi buồn. Vâng,
nỗi buồn thầm lặng của một đại khối dân tộc đã nhiều năm trôi qua, chưa bao
giờ thực sự hoan hỷ, hạnh phúc, vừa lòng với đời sống hiện tại, dù là ở bên
bờ này hoặc bờ kia của đại dương Thái Bình. Nỗi buồn ấy được truyền trao từ
thế hệ này đến thế hệ kia, như một thứ dưỡng khí mà thiếu nó, dường như sẽ
không giữ được vẻ đặc trưng của người Việt. Nỗi buồn ấy có một vẻ câm lặng,
sâu hút đến nỗi không thể nói ra được, không thể diễn tả hết được. Nó mờ
nhạt, phảng phất, như có như không…
Cũng trên đường Bolsa, nơi cù lao
phân chia đại lộ thành hai chiều xe qua lại, người ta trồng một số cây cảnh
và sắp một vài tảng đá tạo thành một hòn giả sơn nho nhỏ. Ngay chỗ đó, khách
qua lại vẫn thường trông thấy một nhà sư ôm bình bát đứng yên. Đầu đội trời,
chân đạp đất. Trời nắng chang chang những ngày vào hạ. Trong các văn phòng,
và trên xe, mọi người đều mở máy lạnh. Riêng một nhà sư tuổi trẻ, trang
nghiêm đứng ôm bình bát, mắt nhắm lim dim, dáng thẳng, bất động, như một pho
tượng. Nơi vị trí của nhà sư, nếu thí chủ phát tâm cúng dường thức ăn hoặc
tịnh tài, cũng chẳng làm sao mà thực hiện được, vì chỗ đó không thuận cho
người ngồi trên xe, và cũng không tiện cho những khách bộ hành hai bên đường
nếu phải băng qua dòng xe cộ nườm nượp. Người ta hoan hỷ cúng dường một vài
đồng bạc cho nhà sư chứ chẳng ai vui vẻ chịu bố thí mấy chục (cho đến cả
trăm) đồng cho cảnh sát làm biên bản phạt vạ (về tội băng qua đường không an
toàn ở quãng đường chỉ dành cho xe cộ). Thế nên, ai cũng thắc mắc, tại sao
nhà sư không hóa duyên bằng cách đi từng nhà, từng cửa tiệm mà lại đứng một
chỗ như pho tượng ở một nơi mà khó có ai đến gần được? Mấy tháng trước, khi
đoạn đường này đang được sửa chữa, người ta thấy nhà sư cũng đứng im bất
động như thế trên một tảng đá phía sau thương xá Phước Lộc Thọ. Lúc đó, ông
đứng xoay lưng ra ngoài, mặt hướng vào một gốc cây, chung quanh không thấy
thùng phước sương hay bình bát gì để tín chủ có thể đặt lễ phẩm cúng dường.
Như vậy, rõ ràng là nhà sư đứng mỗi ngày nhiều giờ đồng hồ nơi phố thị xô bồ
lao xao với hạnh nguyện nào đó, chứ không phải để hóa duyên.
Đã hơn 2500 năm trôi qua, có một
phần nhân loại tự nguyện chọn lựa đi theo con đường giải thoát giác ngộ của
đức Phật. Trong số những người đi theo, cũng có rất nhiều người chỉ nối tiếp
con đường mà tổ tiên, ông bà, cha mẹ của họ đã đi; nhưng họ luôn luôn có
được sự tự do để quyết định tiếp tục hoặc từ bỏ con đường ấy. Ngược lại,
cũng có vô số người, nhất là những người phương Tây, đa phần là những người
trí thức, có danh vọng hoặc địa vị trong xã hội, đã từ bỏ tôn giáo truyền
thống của họ để đi theo con đường của Phật. Sở dĩ phải nêu những cụm từ “trí
thức, danh vọng, địa vị” ở đây là để muốn nhấn mạnh rằng, không phải họ đi
theo Phật giáo để tìm kiếm những thứ ấy. Chính đức Phật là người từ bỏ vương
quyền, sống hạnh khất sĩ, thành lập một cộng đồng Tăng-già và môn đồ không
phân biệt giai cấp, địa vị xã hội, cho nên con đường của Phật là con đường
vượt trên tất cả những gì mà người thế tục trọng vọng, sùng bái. Trong một
lúc khốn cùng nào đó, người ta có thể đi theo những tôn giáo khác vì bản
thân và gia đình nghèo đói, cần được sự trợ giúp về vật chất, hoặc bị bắt
buộc phải theo để bảo vệ mạng sống, bảo vệ tình yêu; nhưng để chọn lựa con
đường giải thoát giác ngộ, rất nhiều người đã phủi sạch những gì họ có, để
đi theo đức Phật. Từ nội dung giáo lý đến hình thức truyền bá, đạo Phật đã
đến với con người ở mọi xứ sở, mọi thời đại, bằng những bước chân trần trụi,
nhẹ nhàng, khiêm cung. Đạo Phật chưa hề cưỡng bức, tổn hại ai để phát huy
tổ chức hoặc nâng cao nhân số tín đồ; trái lại, chính những người con
Phật, trong nhiều thời đại và xứ sở, đã từng là nạn nhân bi thảm của
những cuộc xâm lăng tôn giáo, hoặc những cuộc chiến nhân danh thượng đế
toàn năng. Đọc lại lịch sử Phật giáo tại Ấn-Độ, không ai có thể quên rằng
nhiều chùa chiền bị đốt phá, nhiều Tăng sĩ và tín đồ bị sát hại. Một số phải
cải đạo để sống còn; một số phải sống đời lưu vong. Ấn-Độ chỉ là một thí dụ
điển hình của lịch sử. Còn nhiều trường hợp ở những quốc gia khác, có ghi
hay chưa hề ghi vào sử sách: hoặc bằng hình thức này, hoặc bằng hình thức
kia, những người con Phật luôn chịu thiệt thòi về đức tin, mạng sống, tài
sản, cơ sở, và ngay cả tình yêu hôn nhân, để cải đạo hay giữ đạo.
Trên bề mặt đời sống và trên mặt
phẳng lịch sử ghi bằng giấy mực, người ta sẽ hời hợt không nhìn thấy những
cố gắng phi thường của người con Phật để sống còn và phát huy đạo vàng cho
đến ngày hôm nay. Nhưng thế giới ngày nay, với kỹ thuật truyền thông rộng mở,
và trong nhu cầu bức thiết tìm kiếm một giải pháp hòa bình và ổn định toàn
cầu, nhân loại không thể không nhìn ra đâu là sức mạnh dị thường của Phật
giáo để tồn tại đến thiên kỷ này mà không cần phải dùng đến bạo lực hoặc sự
mua chuộc bằng vật chất trong việc truyền bá.
Sức mạnh ấy, chính là lòng từ bi
và đức khiêm nhẫn. Phật giáo tồn tại qua bao biến thiên lịch sử, đổi thay
chính trị, là nhờ ở những đức tính ấy. Nhà Phật thường nêu châm ngôn “Bi –
Trí – Dũng” để khuyến khích hành giả vận dụng đầy đủ ba đức tính này trong
đời sống, không để khiếm khuyết mặt nào. Nhưng tự thâm sâu mà xét, một kẻ có
đại bi thì không thể thiếu trí và dũng, một kẻ đại trí thì không thể thiếu
dũng và bi, và một kẻ đại hùng thì không thể thiếu bi và trí. Cho nên, khi
hành giả vận dụng lòng từ bi đến mức tuyệt đỉnh thì cũng đồng thời thể hiện
cả trí tuệ siêu việt và dũng lực vô biên. Đây là điểm mà người con Phật trao
đổi với nhau trong sở hạnh tu tập; còn người bên ngoài, khi nhìn vào Phật
giáo, họ chỉ thấy lòng từ bi, đức khiêm nhẫn, và con đường hòa bình bất bạo
động.
Điều mà người khác có thể thấy
được, cảm được từ những gì người con Phật thực hành, chính là chỗ sở trường
của người con Phật. Nhưng vận dụng và phát triển lòng từ bi ấy như thế nào
là điều khó nhọc, lắm công phu, chứ không đơn giản là một thứ tình cảm được
dạy dỗ, truyền trao hoặc được phát khởi từ sự kêu gọi tương thân tương ái
đối với hiện tượng bất toàn của nhân quần và xã hội.
Người ta không thể thấy được là
để thể hiện lòng từ bi—hay nói cho đủ là ba đức tính bi, trí, dũng—của người
con Phật đối với tha nhân, với muôn loài, trước hết người con Phật phải tự
thắng mình, vượt qua bản ngã của mình. Đây là điều đức Phật từng nói: “Thắng
vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng mình mới là chiến công oanh liệt
nhất.” Một lời dạy ấy thôi, có thể phải thực hành nhiều đời kiếp để thành
tựu. Nhưng ít ra trong đời sống thường nhật, người con Phật có thể ứng dụng
và biểu hiện ít nhiều về khả năng tự thắng mình, cũng đủ mang lại niềm an
lạc hạnh phúc chân thật cho mình, cho người; hay ít ra, về mặt xã hội, cũng
chuyển hóa phần nào để dân tộc và nhân loại bớt cuồng si, bạo động.
Dùng từ nhãn (đôi mắt từ bi) để
nhìn con người và cuộc đời, người con Phật không sinh niềm oán hận, thù ghét,
khinh rẻ đối với kẻ khác, cũng không hành động hoặc buông lời mạ lỵ làm tổn
thương kẻ khác (bất kể họ là người ác hay người hiền). Kẻ ác không bao giờ
sợ hãi sự thù hận và bạo lực. Nếu người con Phật dùng hận thù và bạo lực để
đối đầu với kẻ ác, trước hết sẽ không còn là người con Phật; thứ nữa, sẽ
hoàn toàn thất bại, bởi vì niềm thù hận và bạo lực mà họ dùng đến chính là
sở trường của kẻ ác. Dùng sở trường của kẻ ác để đối đầu kẻ ác chẳng khác gì
tiểu yêu dùng xảo thuật để chống chọi với quyền phép vô song của ma vương.
Kẻ ác chỉ sợ và kính những người có lòng từ bi. Ma vương kính quí và cuối
cùng quy y đức Phật là vì lòng từ bi của ngài chứ không phải vì ngài có thần
thông và năng lực. Kẻ ác chỉ thắng được người hiền trong nhất thời, bằng bạo
lực và niềm thù hận; nhưng không thể thắng được mãi mãi. Bởi vậy, khi vận
dụng lòng từ bi để cảm hóa kẻ ác, hành giả đạo Phật đồng thời vận dụng đức
khiêm nhẫn (dũng) để chịu đựng, đón nhận và chờ đợi, dù trải trăm kiếp ngàn
đời, cũng phải giữ tâm bình lặng như thế, tuyệt đối không khởi niệm ác, nhất
nhất phải giữ trọn niềm thương yêu không bờ bến của mình đối với tha nhân,
dù là những tha nhân đã giết hại thầy-bạn, thân bằng quyến thuộc của mình,
dù là những tha nhân đày đọa, bức hại, vu khống, xuyên tạc, giam cầm mình và
đồng loại… Khi lòng từ bi được vận dụng đúng mức, nó sinh ra vô số thuộc
tính của thiện tâm như sự khoan dung, khiêm nhường, tha thứ, nhẫn nại, hòa
hợp, từ tốn, bất bạo động, vô chấp… và ngay cả: có thể cùng lúc tỏa sáng trí
tuệ và hùng lực. Để làm được điều trên là cả một nỗ lực phi thường. Đó là
cuộc chiến nội tâm thầm lặng nhưng cam go nhất mà mỗi người con Phật chúng
ta phải vượt qua, phải thành tựu, phải tự thắng, trước khi trải lòng mình
đến với muôn loài.
Trong cuộc khủng hoảng của thế
giới ngày nay với viễn ảnh không mấy lạc quan về chiến tranh tôn giáo (ẩn
nấp dưới danh nghĩa chủng tộc hoặc chống khủng bố), về sự hâm nóng trái đất
(global warming) như là mối đe dọa hủy diệt cả hành tinh, nhân loại đang cần
một tiếng nói, một triết thuyết, hay cụ thể là một phong trào có tầm ảnh
hưởng quốc tế, có thể làm trung gian cho những đối thoại cảm thông và hợp
tác hòa bình giữa các thế lực đang đối đầu nhau bằng bạo lực và thù hận,
chặn đứng hoặc làm giảm thiểu những sinh hoạt và hành động gián tiếp hay
trực tiếp tàn phá thiên nhiên, ô nhiễm môi trường, tác động đến sự tồn tại
của địa cầu. Phật giáo qua lịch sử truyền bá một cách hòa bình và thầm lặng
hơn hai nghìn năm trăm năm, có thể đóng góp rất nhiều cho sứ mệnh thời đại
của thiên niên kỷ này đối với các nan đề nói trên. Lòng từ bi khoan dung,
chủ trương hòa bình, bất hại và bất bạo động là chất liệu không cùng tận mà
người con Phật có thể vừa ứng dụng vừa trang trải đến với người khác.
Người con Phật không tự hào với
tài sản vật chất, điện đài nguy nga; không tự hào với quyền lực chính trị
quốc gia hay quốc tế và nhân số tín đồ đông đảo năm châu. Nhưng có thể hãnh
diện về kho tàng từ bi khoan dung vô cùng vô tận của mình. Với vốn liếng vô
cùng tận ấy, người con Phật phải là đội ngũ tiên phong cho sứ mệnh hòa bình
và bảo vệ thiên nhiên của nhân loại. Sứ mệnh ấy, thực ra không cần phải kêu
gọi, vì đó chính là một phần nhỏ trong bi nguyện vô biên của người con Phật
từ hơn hai thiên kỷ trước rồi.
Với bi nguyện độ sanh, người con
Phật tiếp tục những bước đi thầm lặng mà cao cả của mình để cảm hóa, cứu độ
bao kẻ ác, thế lực ác. Cuộc chiến thầm lặng của họ, thực ra không thể gọi là
“cuộc chiến” như là một trận thư hùng giữa hai đối lực thù nghịch. Đó là nỗ
lực để tự thắng mình—một nỗ lực phi thường một cách thầm lặng, kiên cường,
với sự ngời sáng của trí tuệ.
Đối với họ, không có kẻ thù: chỉ
có kẻ ác, như là những nạn nhân của tham, sân, si, cần được cảm hóa.
Đối với họ, không cần chiến công
hay chiến lợi phẩm nào. Nếu miễn cưỡng mà dùng những từ ngữ này, có thể nói
rằng chiến công của họ là sự tự thắng và chiến lợi phẩm của họ là niềm an
lạc hạnh phúc thật sự cho mình, cho tha nhân.
Để nuôi dưỡng, bảo vệ lòng từ bi
của mình, họ có thể trả giá bằng sự hy sinh cả thân mệnh; mà sự hy sinh vô
giá ấy, không có giải thưởng hay lời khen tặng nào của thế gian có thể vói
tới được.
Mỗi người chúng ta, khơi dậy ánh
lửa của từ bi kham nhẫn, dù công khai hay thầm lặng, cũng sẽ thắp sáng được
cho vòm trời u tối mê vọng của trần gian.
Bạn tôi, một người năng động,
xông xáo, thỉnh thoảng đi ngang thương xá Phước Lộc Thọ và trông thấy vị sư
đứng bất động dưới nắng, kể rằng “tôi có đến gần ông ấy để cúng dường ít
tịnh tài, nhưng không có cách nào vì bình bát che kín, không mở nắp. Ông ấy
đứng im, mắt nhắm, không hay biết những gì xảy ra chung quanh. Có vẻ như
đang thiền định. Mồ hôi chảy ướt cả lưng và vai áo. Hai bàn chân ông sưng vù,
có lẽ bị bỏng vì đứng chân trần trên tảng đá nóng... Tôi không bằng lòng với
hình thức khổ hạnh này. Thấy tội nghiệp quá mà không biết phải làm gì!... Dù
sao, hình ảnh ông ấy đứng im như thế cũng làm cho những lăng xăng rộn ràng ở
chốn này lắng dịu xuống, phải không?” Tôi gật đầu tán đồng.
Khi chia tay ra về, đi ngang khu thương xá Phước Lộc Thọ, thấy vị sư đứng im
nơi ấy, tôi nghĩ thêm: “Lòng từ bi kham nhẫn đã được đúc thành một pho
tượng sống để an trí nơi phố thị phù hoa này”.
VĨNH HẢO

|