DÂU TRĂM HỌ
VĨNH HẢO
Từ thời xa xưa lắm rồi, khi nói
“dâu trăm họ”, lập tức người ta nghĩ ngay đến những vị thầy trụ trì ở các
chùa. (Xin hiểu chữ trụ trì như là danh từ chuyên môn rất phổ thông
để chỉ các vị sư, Tăng hay ni, viện chủ, chịu trách nhiệm toàn bộ về mọi
công việc đối ngoại lẫn đối nội của một ngôi chùa, chứ không phải trụ trì
như một động từ kép mà một số Phật tử hay không Phật tử đã dùng để chỉ cho
việc ăn ở, trú ngụ của bất kỳ vị Tăng sĩ nào). Các vị sư phụ khi bổ nhiệm đệ
tử mình đi trụ trì ở một ngôi chùa nào đó đều dặn dò, huấn thị về việc “làm
dâu trăm họ” phải như thế nào. Rồi cứ như vậy, từ ngữ đó truyền đi từ đời
trụ trì này đến đời trụ trì khác, đến độ trong nhà chùa, từ ngữ ấy hầu như
chỉ được hiểu như là từ chuyên môn để ám chỉ các vị thầy trụ trì, tu viện
trưởng, viện chủ v.v...
Ngày nay, từ ngữ “dâu trăm họ” đã
không còn xa lạ gì với mọi người. Thậm chí, nhiều người còn lấy từ ngữ ấy để
áp dụng cho một số trường hợp khác ngoài thế tục. Chẳng hạn ông chủ nhiệm
một tờ báo cũng có thể than thở: “Chao ôi, biết làm sao cho vừa lòng độc giả
đây! Thiệt khổ cho cái nghiệp làm dâu trăm họ.” Một ca sĩ hay chủ nhà hàng
cũng có thể tự ví mình như vậy. Cho nên, chữ “dâu trăm họ” bây giờ không còn
là của riêng của các thầy trụ trì nữa.
Nói như vậy không phải là tiếc nuối
muốn đòi lại cái từ ngữ rất phiền đó về cho nhà chùa. Quý thầy trụ trì có
muốn cất riêng từ ngữ ấy đâu. Muốn vất đi thì có. Có điều là vất không được
đó thôi. Vì lòng từ bi, vì hạnh nguyện dẫn đạo và sứ mệnh hoằng pháp mà phải
gánh lấy, phải chịu làm người dâu cho bá tánh thập phương. Khi vị thầy trụ
trì nói đến chữ “dâu trăm họ”, không phải là để than thở, mà là để nhớ lấy
trách vụ của mình, nhớ lấy bổn phận hoằng đạo của mình để mà tiếp tục chịu
đựng...
Chịu đựng cái gì? Nói vô phép, có
cạy miệng quý vị trụ trì, quý ngài cũng không nói ra. Chuyện đạo, chuyện
chùa, tự nguyện dấn thân làm việc, có gì phải than trách, kể lể. Những kẻ
xuất trần, lấy trí tuệ giác ngộ làm sự nghiệp, xem ba cõi bốn đại là không,
chẳng mấy người chịu đưa vai gánh lấy ngôi chùa để tiếp cận chúng sinh và
cuộc đời mà dẫn dắt họ trên đường tu học. Đa phần người xuất gia thích ẩn cư
trên núi cao, hoặc du hóa, nay chùa này mai chùa nọ, hoặc ở chúng (tức là
chỉ ở chùa thôi, ai làm trụ trì thì làm, phần mình chỉ biết lo tu tập và
nhận công tác nào vị trụ trì giao phó, chứ nhất quyết không nhận trách nhiệm
trụ trì). Họ muốn cứu độ chúng sinh lắm, nhưng họ không muốn phải gánh cái
trách nhiệm trụ trì, tu viện trưởng, viện chủ v.v... Trách nhiệm đó nặng nề,
bận rộn và trở ngại việc tu tập lắm. Đã không gánh thì thôi, gánh thì phải
gánh cho trọn. Mà làm sao cho trọn được khi mà chúng sinh khó độ, hết người
này đến kẻ khác, hết thế hệ này đến thế hệ kia, hằng hà sa số chúng sinh
mong đợi được dẫn đạo. Đó là chưa nói đến trăm ngàn Phật sự khác ở chùa, từ
miếng cơm manh áo cho Tăng chúng cho đến những lễ lượt, hết ngày này qua
ngày khác, hết năm này qua năm nọ, làm thế nào mà ngưng được để gọi là trọn!
Cho nên, khi một Tăng sĩ chấp nhận
đi trụ trì một ngôi chùa là coi như đã chấp nhận hy sinh cả một đời. Rất
hiếm khi vị trụ trì bỏ chùa mà đi (chỉ có những thầy trụ trì ở các chùa
hội Phật giáo tại hải ngoại vì thấy không thích hợp với sinh hoạt hội hè
nặng chất thế tục mới tự động rời chùa mà đi, hoặc bị các hội viên Phật tử
chia phe phái, tranh giành quyền lực, tìm cách mời đi mà thôi). Thường
thường đã nhận trụ trì là trụ trì suốt đời. Gánh lấy ngôi chùa là gánh lấy
cục nợ, tự dưng phải lo việc trả, trả cho đến khi nào không còn nợ, hoặc đến
khi nhắm mắt. Mà nợ ở đây là nợ cái ân của chư Phật chỉ dạy con đường giải
thoát sinh tử, và nợ cái ân của chúng sinh đã là những nghịch duyên và thuận
duyên cho mình trên bước đường giải thoát đó. Cái ân đó biết bao giờ mới trả
hết nếu không chứng ngộ thành Phật. Mà muốn thành Phật, đâu phải suốt ngày
tiếp đón Phật tử để nghe hết lời than thở này đến sự trách phận kia, cùng
với những đòi hỏi, yêu sách... rồi đùng cái thành Phật. Cũng phải có thời
giờ tu tập riêng biệt tại phương trượng, tại phòng riêng; cũng phải có một
khoảng không gian và thời gian tối thiểu nào đó trong ngày để quay về với
chính mình chứ…
Cho nên, đề cập đến chuyện “dâu
trăm họ” ở đây, thực ra không phải để bàn tán bình phẩm gì về quý thầy trụ
trì, mà chính là để nói chuyện với chính hàng Phật tử chúng ta. Quý thầy sẽ
không bao giờ nói, mà không nói thì chúng ta không biết. Vậy thì chúng ta
phải tự nói, nói để cùng biết.
LÝ TƯỞNG GIẢI THOÁT
Khi một người từ bỏ gia đình để trở
thành kẻ xuất trần học đạo, mục tiêu mà kẻ ấy nhắm đến là giải thoát giác
ngộ. Thiền sư Quy Sơn trong Cảnh Sách Văn nói: “Phàm là người xuất gia,
khi cất bước đi là hướng đến một phương trời cao rộng. Tâm tính và hình dung
khác hẳn với người thế tục, [là vì muốn] nối bước và làm hưng thịnh cho
giòng giống Phật đà, làm kinh động và nhiếp hóa những kẻ tà vạy xấu ác (ma
quân)...”
Phương trời cao rộng ấy không phải
chỉ nói cái lý tưởng xuất gia theo nghĩa đen là rời bỏ gia đình thế tục (cha
mẹ, anh chị em và bà con ruột thịt), mà chính yếu là mang cái nghĩa giải
thoát giác ngộ, tức là chứng ngộ được trí giác vô thượng như Phật để vĩnh
viễn thoát ly sinh tử. Không có trí tuệ ấy thì không thể nào có giải thoát
hoàn toàn, rốt ráo. Và ngoài trí tuệ ấy, không có gì đáng gọi là sự nghiệp
của Tăng sĩ cả (Duy Tuệ Thị Nghiệp—chỉ có trí tuệ mới là sự nghiệp). Vì vậy,
khi một Tăng sĩ đi trụ trì một ngôi chùa, thì đó là do hạnh nguyện hoằng
pháp lợi sanh mà làm, chứ không phải là vì sự nghiệp của vị ấy theo cách
hiểu thông thường của nhiều người. Chính vì lấy trí tuệ giác ngộ làm sự
nghiệp, các thầy trụ trì đã không xem việc trụ trì ngôi chùa hay chính ngôi
chùa vật chất đó là hệ trọng. Một khi phủi tay bước vào khung trời tự tại
giải thoát thì ba ngàn đại thiên thế giới cũng vất đi chứ đáng sá gì một
ngôi chùa nhỏ. Sở dĩ phải bận tâm lo lắng cho sự tồn vong của chùa là vì
muốn giáo hóa chúng sinh, và vì hàng Phật tử chúng ta thực sự muốn có ngôi
chùa ấy để nương tựa Tam Bảo mà tu học.
Trong khi đó, chúng ta chỉ muốn
điều thuận lợi cho chúng ta, mà quên rằng, rất nhiều vị trụ trì phải khốn
đốn khổ nhọc với ngôi chùa mà đáng ra, theo lý tưởng giải thoát, vị ấy không
cần phải gánh lấy. Ý tôi muốn nói rằng, không có ngôi chùa ấy, không có việc
hướng dẫn Phật tử tu học, vị thầy vẫn có thể giải thoát giác ngộ như thường.
Đâu phải có làm Phật sự, có hoằng pháp lợi sanh thì mới được trí tuệ, và
được giải thoát. Cũng như không phải xây chùa, đúc tượng, in kinh, thuyết
pháp, làm công quả... thì tự nhiên phát sinh trí tuệ. Các vị Tăng sĩ không
cần đi trụ trì để được trí tuệ, giải thoát. Họ đảm nhận việc ấy là vì hàng
Phật tử chúng ta mà thôi.
Để đáp lại sự hy sinh cao quý đó,
chúng ta nên cùng góp sức, mỗi người một tay, chia sẻ những Phật sự trong
chùa. Có như vậy, các vị trụ trì mới có được thêm thì giờ để tu tập, làm
những Phật sự cần thiết và nhất là không phải bận tâm ở những điều không
đáng bận tâm. Ở hải ngoại, nhất là ở Hoa Kỳ, điều bận tâm của các vị Tăng
trụ trì là tiền thuê, nợ, phải trả hàng tháng cho ngôi chùa. Điều này thật
không xứng hợp với vị trí và tâm nguyện của người xuất gia chút nào. Ở Việt
Nam, dù là nước nghèo đói, quý thầy cũng đâu phải lo toan, để tâm vào những
chuyện tiền bạc, hóa đơn v.v... Chí nguyện xuất trần cao đẹp như vậy mà nay
tâm tư phải đặt vào những chuyện tầm thường như tiền nhà với hóa đơn thì
uổng phí quá. Để thoát khỏi tình trạng đầy phiền não đó, về mặt nội tại, đòi
hỏi các vị trụ trì phải đầy đủ bản lĩnh để an nhiên vượt qua (nhưng đôi khi,
chuyện tài chánh có vẻ như không dính nhập gì đến vấn đề bản lĩnh hay nghị
lực cả: đúng vào đầu tháng thì phải có tiền để trả nhà băng về khoản nợ mua
nhà, không có sự nhân nhượng cho thành phần xã hội nào); về mặt ngoại tại,
đòi hỏi phải có sự hỗ trợ tích cực của hàng Phật tử cư sĩ tại gia chúng ta.
Nhưng điều quan trọng cần nói ở đây,
không phải chỉ là lời kêu gọi cúng dường, hỗ trợ vật chất cho quý thầy, cho
các chùa (chuyện này mọi người cho rằng đã từng làm nhiều năm nay rồi). Điều
đáng nói là hàng Phật tử chúng ta phải làm sao để các thầy trụ trì và những
vị xuất gia không bị vướng víu hay bị coi là những nàng dâu cho trăm họ nữa.
Dù cho chuyện làm dâu trăm họ là
chuyện mà quý thầy vui lòng chấp nhận, hy sinh mà hứng chịu, chúng ta cũng
xót xa, chẳng yên lòng để cho quý thầy phải khổ nhọc gánh lấy. Không thể để
cho chuyện trụ trì trở thành một thông lệ, một trách nhiệm tất nhiên mang
đầy những ràng buộc, lo âu, toan tính, trái ngược với lý tưởng giải thoát mà
người xuất gia hằng đeo đuổi. Quý thầy đã giúp chúng ta có nơi nương tựa lễ
bái, tu học thì chúng ta cũng phải giúp quý thầy được thong thả tâm trí để
hành đạo. Đừng bắt quý thầy làm “dâu trăm họ” nữa. Không phải chỉ riêng với
các vị trụ trì, mà kể cả đối với những thầy, những sư cô khác ở chùa. Đừng
bắt người xuất gia đeo đuổi lý tưởng giải thoát trở thành những nàng dâu.
Điều gì khiến người ta ví các thầy
trụ trì (và ngay cả những người xuất gia hiện nay tại hải ngoại) như là
những “nàng dâu trăm họ”? Nhóm chữ “dâu trăm họ” đó mới đọc qua chẳng thấy
gì đáng chú ý lắm. Ừ thì người ta đi lấy chồng, người ta về nhà chồng làm
dâu cho họ nhà chồng, rồi người ta được gọi là nàng dâu. Làm nàng dâu sống
bên nhà chồng phải thuận theo tục lệ nhà chồng, phục vụ cho nhà chồng tối đa,
quên cả bản thân và gia đình ruột thịt của mình (đây là chỉ nói hình ảnh
nàng dâu hồi xưa mà thôi). Còn ở đây, vị trụ trì không làm dâu cho một họ,
mà cho cả trăm họ (bá tánh). Khác nhau ở số lượng phục vụ, vậy thôi! Người
ta nghĩ đơn giản như thế. Mà vì đơn giản, nên thấy rằng các thầy trụ trì,
hay các vị xuất gia, phải có bổn phận đối với mình, giống như nàng dâu phải
có bổn phận với nhà chồng. Nghĩ như vậy là đánh giá vai trò của các vị trụ
trì, các vị xuất gia quá thấp. Đánh giá thấp nên hết đời này đến đời khác,
các vị ấy cứ phải làm dâu trăm họ hoài. Đó là điều rất chua xót mà chúng ta
cần phải suy nghĩ và thảo luận.
TRỤ TRÌ
Đúng ra phải đọc là “trú
trì”. Theo định nghĩa thông dụng trong nhà chùa, trú trì là kẻ “trú Pháp
vương gia, trì Như lai tạng”. Tức là kẻ ở trong nhà của Pháp Vương, gìn giữ
kho báu của Như Lai. Pháp Vương (vua Pháp) cũng là một danh xưng chỉ đức
Phật. An trú trong nhà Pháp Vương theo nghĩa đen là trú trong ngôi chùa thờ
Phật, nhưng nghĩa chính yếu là nói “Ở Nhà Như Lai” như trong kinh Pháp Hoa,
(phẩm Pháp Sư, thứ mười), tức là thể hiện tâm từ bi rộng lớn đối với tất cả
chúng sinh. Còn “giữ gìn kho báu Như Lai” nếu hiểu đơn giản thì là bảo vệ và
hoằng dương Chánh pháp; nhưng nói cho trọn vẹn hơn thì chính là thấu triệt
và thể nghiệm được Như Lai Tạng Tính, tức Chân Như vậy.
Định nghĩa đơn giản, ngắn gọn,
nhưng ý nghĩa thâm sâu đến cảm động. Cảm động vì nó nói lên được cái sứ mệnh
cao cả, vĩ đại thực sự của các thầy trụ trì, cũng như các vị xuất gia, không
giống như cái nghĩa dâu trăm họ rất thường mà người ta từng nghĩ.
Dâu trăm họ! Từ ngữ đó càng lúc
càng hiển lộ một thực tế rất đau lòng trong sinh hoạt tự viện của Phật giáo
Việt Nam, kể cả trong nước và hải ngoại. Thực tế đó phát xuất từ đâu? Từ
nàng dâu lúc nào cũng muốn hết lòng cung kính phục vụ họ chồng do bởi lòng
thương yêu của mình, hay từ sự đòi hỏi, yêu sách quá đáng của họ nhà chồng?
TƯƠNG QUAN GIỮA NÀNG DÂU VÀ TRĂM HỌ
Ngày xưa, đức Phật vất bỏ cung vàng
điện ngọc để trở thành khất sĩ, chu du khắp nơi để hóa độ chúng sinh. Ngày
nay, ở xã hội văn minh, thời đại văn minh, chế độ khất sĩ không còn thích
hợp nữa. Chùa chiền, tu viện, tịnh xá, niệm Phật đường được xây dựng khắp
nơi. Chư Tăng trở thành những vị trú trì ở các tự viện ấy. Dù trên hình thức
sinh hoạt có thay đổi, nhưng trong bản chất, những vị xuất gia ít nhiều đều
thừa hưởng được tinh thần phá chấp và hạnh xả ly của đức Phật. Tinh thần phá
chấp khiến người xuất gia không bám trụ vào bất cứ hình sắc hay tâm pháp nào;
hạnh xả ly khiến người xuất gia xem thế gian như đôi dép bỏ (Luận Bảo Vương
Tam Muội—Mười điều tâm niệm), xem tất cả các pháp dù thiện hay ác, như giấc
mộng, như hoa đốm, như bọt nước, như ảnh tượng, như sương mai, như bóng chớp...
(Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật). Thế nên, việc trú trì thực ra không phải
là một cách để tạo sự nghiệp, mà là một phương thức khác của hạnh nguyện độ
sanh, hoằng truyền chánh pháp. Khi xưa, Tăng sĩ chu du, đến những nơi nào
cần đến, đem ánh đạo truyền khắp nhân gian; ngày nay, việc ấy cũng không
thay đổi: chùa chiền mọc khắp nhân gian. Chùa chiền chính là những biểu hiện
của Nhà Pháp Vương. Nơi đâu có chùa, nơi đó có Tam Bảo và nơi đó, có Phật tử
thiện tín tụ về tu học, lễ bái, tụng niệm.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng rằng ở
hải ngoại không có một ngôi chùa nào hết. Một hôm ra đường gặp một vị Tăng,
hay một ni cô. Chúng ta có mừng, sung sướng, vội vàng tìm đến để được chắp
tay vái lạy chăng? Ở xã hội này, còn một vị Tăng khoác mặc pháp y là điều
hiếm hoi, quý giá. Không có chùa chiền, tịnh xá, nhưng có bóng dáng của Tăng
sĩ đầu tròn áo vuông, là biết đạo vàng hãy còn cơ duyên phát triển. Tăng là
ngôi thứ ba trong Tam Bảo mà chúng ta phát nguyện quay về nương tựa (quy y),
làm sao không vui mừng khi bắt gặp!
Những vị Tăng đang tị nạn trên xứ
người đó, tự mỗi người có thể mướn tạm một phòng nhỏ để sống qua ngày. Họ có
khả năng làm việc như chúng ta, tuy không dư dả gì nhưng chắc chắn là có thể
trang trải được tiền phòng để có chỗ tu niệm. Hồi xưa Tăng sĩ ngủ dưới gốc
cây (không được quá hai đêm cho một chỗ), nay có căn phòng nhỏ tưởng cũng
quá nhiều rồi, đâu cần đòi hỏi gì hơn. Chuyện kiến tánh thành Phật đâu có lệ
thuộc vào chỗ ở rộng hay hẹp. Nhưng thấy các vị ấy phải đi làm kiếm sống qua
ngày mà tu niệm, lại ở chỗ nhỏ hẹp không được khang trang, chúng ta áy náy
chẳng yên lòng, bèn vận động lập chùa, lập hội, nài nỉ các vị về đó để hướng
dẫn chúng ta tu học.
Ngôi chùa dựng lên rồi, dù không
được to lớn và có nét thiền môn như các chùa ở Việt Nam, nhưng cũng có được
chánh điện trang nghiêm với Phật tượng, kinh sách và Tăng sĩ để chúng ta
ngưỡng vọng nương tựa. Vậy là chúng ta yên tâm rồi. Khi nào có chuyện buồn
phiền trong gia đình, cứ lái xe đến chùa, lạy Phật, gặp thầy để giải bày, để
được khuyên răn, dạy dỗ... Mỗi ngày rằm, mồng một, cho đến các ngày lễ lớn,
Phật Đản, Vu Lan, Tết... chúng ta có nơi có chỗ để về dự hội, gặp gỡ đồng
hương v.v... Xong lễ thì quay về vui hưởng đời sống sung túc ấm êm của gia
đình. Nhưng rồi sinh hoạt ở chùa hàng ngày, hàng tháng ra sao, chúng ta có
thực sự biết rõ không? Đời sống của Tăng ni ra sao? Thuốc men, quần áo, thực
phẩm, tiền thuê nhà, tiền điện, tiền nước v.v... Chúng ta có cung ứng đầy đủ
cho các vị ấy yên tâm tu tập không?
Có nhiều Tăng ni phải đi ra ngoài
làm việc thêm để có tiền trả tiền thuê nhà hàng tháng. Một số Phật tử thấy
vậy, không bằng lòng, yêu cầu các vị ấy đừng đi làm nữa. Yêu cầu đừng đi làm
nữa để lòng mình khỏi áy náy, để mình khỏi xấu hổ với những người khác đạo,
để mình khỏi mang tiếng là bỏ đói Tăng ni; nhưng việc cung ứng tịnh tài để
chi phí cho chùa lại chẳng lo bồi đắp hay tìm cách giải quyết; chỉ lo cái
quả, chẳng lo cái nhân. Nếu ví các vị ấy như những nàng dâu thì có thể tự
hỏi rằng tại sao các nàng dâu phải ra ngoài kiếm thêm tiền để nuôi gia đình
chồng? Rõ ràng là vì sinh hoạt gia đình nhà chồng đòi hỏi nhiều chi phí quá
mà lại không thu vào được lợi tức nào.
Thực ra, một vị Tăng sĩ không nhất
thiết cần có một ngôi chùa. Khi họ chấp nhận việc xuất gia, họ đã sẵn sàng
chấp nhận đời sống không nhà, làm khất sĩ lang thang, và chấp nhận bất kỳ
hoàn cảnh sống khó khăn nào để có thể tu và hành đạo. Họ dựng chùa, hoặc
đồng ý đảm nhận một ngôi chùa do chúng ta dựng nên, đều là vì chúng ta cả.
Chúng ta phải biết, phải nhớ điều ấy.
Chúng ta không thể giao khoán cho
họ cái trách nhiệm lo lắng tiền bạc, tài chánh (điều tối kỵ trong nhà chùa)
để cố gắng gìn giữ cho ngôi chùa khỏi rơi vào tay nhà băng và các công ty
cho vay. Trách nhiệm và công việc của người xuất gia không phải như vậy.
Không thể liệt kê thêm trong danh mục hoằng pháp của người xuất gia cái vấn
đề rất đau xót và buồn cười là: kiếm tiền trả tiền thuê nhà mỗi tháng. Và
khi chúng ta có thể lập được ban Hộ trì Tam Bảo, hay ban Bảo trợ gì đó để
cáng đáng vấn đề tài chánh rồi, thì cũng không nên xem Tăng sĩ như những
nàng dâu có bổn phận phục dịch chúng ta.
Quan hệ giữa Tăng Bảo và cư sĩ tại
gia không phải là quan hệ nàng dâu và nhà chồng. Cho dù những vị ấy vì
thương xót chúng ta, vì muốn làm điều lợi ích cho chúng ta, vì cung kính
chúng ta như những đức Phật tương lai mà chấp nhận một đời phục vụ không
biết mỏi mệt, chúng ta cũng không có quyền đòi hỏi các vị ấy phải có bổn
phận gì đối với chúng ta cả.
Thử nhìn lại hàng ngũ cư sĩ tại gia,
những người của trăm họ, tức thập phương bá tánh, chúng ta sẽ thấy bên cạnh
những Phật tử thuần thành, tận tụy chăm lo việc chùa, hộ trì giúp đỡ Tăng ni,
siêng năng tu tập lễ sám, cung kính chư Tăng đúng như hàng Tăng Bảo, còn có
những người cũng xưng là Phật tử nhưng lại đến chùa và gặp Tăng ni với thái
độ, lời nói, ý nghĩ và những mục tiêu không phù hợp chánh pháp như sau:
— xem Tăng ni như ông từ, bà từ giữ
chùa cho mình đến lễ lạy khi nào thấy cần (tợ như cách nhà chồng nhìn nàng
dâu nói trên);
— tu học thì chẳng màng, lúc có
việc thì đến chùa nhờ vả, sai khiến chư Tăng ni như sĩ quan sai lính;
— thấy Tăng ni chắp tay chào mình
và lúc nào cũng “mô Phật” khi nghe mình nói, tưởng là mình quan trọng, được
đối xử đặc biệt, coi bạn đạo khác không ra gì, vênh váo ra vào cổng chùa như
văn quan võ tướng;
— mượn đạo, mượn chùa để lập bè lập
nhóm mà tranh danh tranh lợi với đời, có được chút hư danh thì không còn
biết kính nể Tam Bảo là gì;
— cúng dường cho chùa rồi kể lể ân
nghĩa, đòi hỏi Tăng ni trọng vọng; lỡ không được vừa ý thì đem lòng giận mà
bỏ chùa, bỏ thầy;
— biết làm công quả, biết tụng kinh
bái sám, nhưng chấp chặt vào những sinh hoạt bề ngoài đó, cho là mình tu
nhiều, làm phước nhiều hơn Tăng ni, đem lòng khinh mạn với hàng Tăng Bảo;
— với tâm mê muội cố chấp, học đạo
nhiều năm không sao giải thoát được, nghe lời chiêu dụ của tà giáo hứa hẹn
có pháp tu lạ mau thành Phật thành Thánh, bèn xun xoe chạy theo, trở mặt hủy
báng Tăng Bảo;
— có được chút bằng cấp học vị ở
đời, lại được cơ hội đọc một số kinh điển sách báo trong đạo, tưởng rằng như
vậy là đã “đời-đạo hai vai,” đạt đến chỗ tột mức đời sống trí thức, vào cửa
chùa rêu rao khoác lác, coi thường các bạn đạo kém tài vô danh khác, lại
khinh thị cả Tăng ni vì thấy những vị này không có văn bằng và kiến thức thế
tục như mình hoặc chưa đọc tới những cuốn sách của những tác giả ngoại quốc
viết về Phật giáo như mình, từ đó tự thấy mình là kẻ ngoại hạng cao cả, là
bậc thầy của cả Phật tử và Tăng ni;
— nghe giảng về tự quy y, về tự
tính mình vốn là Phật, Pháp, Tăng... (kinh Pháp Bảo Đàn của Lục Tổ Huệ Năng),
chấp chặt vào đó, cho rằng mình cũng vốn là Phật, Pháp, Tăng; cho rằng mình
cũng ngang với Phật, Pháp, Tăng; từ đó trở nên cống cao ngã mạn, coi Tam Bảo
không ra gì (mà thực ra, trên thực tế sinh hoạt tâm linh cũng như đời sống
thường nhật, chính mình chưa tu học một cách nỗ lực, nghiêm chỉnh; chưa hề
giữ được một ngày xuất gia thanh tịnh; suốt đời bon chen lợi danh với đời,
về nhà thì đắm nhiễm tình cảm thê nhi—tham; ai không thuận theo ý mình thì
đem lòng sân hận, ghét bỏ—sân; luôn luôn chấp chặt vào sự hiểu biết của mình,
không chịu tiếp nhận ý kiến kẻ khác—si; ngạo mạn cho mình là cao cả, cho
mình là sáng suốt, đứng trên kẻ khác—mạn... Những tâm lý phiền não căn bản
đó mà không bước qua nổi thì làm sao có thể gọi là thấu triệt được tự tính
thanh tịnh? làm sao có thể nói đến chuyện bình đẳng với Tăng Bảo hay Tam Bảo!);
— đọc sách thiền, nghe giảng thiền
nói về sự phá chấp, chỉ hiểu lõm bõm chứ không lĩnh hội được trọn vẹn, rồi
chấp vào tư tưởng phá chấp ấy, cho rằng việc tụng kinh bái sám cũng như các
hình thức sinh hoạt truyền thống của các Tăng ni là phù phiếm, mê tín... và
cuối cùng chính mình trở thành những người mê chấp, đi đâu cũng chỉ trích,
khinh dễ Tăng ni và sinh hoạt các chùa...
Và còn rất nhiều trường hợp rất tệ
hại khác từ phía hàng cư sĩ tại gia, tự nhận Phật tử như chúng ta. Nêu ra
những tệ hại ấy nơi đây là để chúng ta phản tỉnh. Nếu chúng ta chưa phạm vào
những lỗi ấy thì rán giữ sao đừng phạm; còn đã lỡ phạm thì phải cùng chân
thành mà sám hối, chừa bỏ.
Thực ra, trong hàng ngũ Tăng sĩ
Phật giáo—cũng như bất cứ hàng ngũ tu sĩ của tôn giáo nào trên đời—có một
vài cá nhân sinh hoạt sai chánh pháp, và đôi khi đã làm ô danh cho đạo mình.
Nhưng chúng ta không thể dựa vào những điều này để lên án, chỉ trích toàn bộ
hàng ngũ Tăng sĩ của giáo hội.
Tăng sĩ, như chúng ta đều biết, là
những trưởng tử của đức Phật, là một ngôi trong Tam Bảo. Chúng ta đã từng
phát thệ quy y, đem trọn đời mình nương tựa nơi các vị ấy để tu học, lý đâu
có thể vì vài cá nhân nào đó mà phỉ báng cả Tam Bảo! Lý đâu lại nhìn các vị
ấy như những nàng dâu có bổn phận với mình! Mà thực ra, do đâu một người
Phật tử có tư tưởng và hành vi đó? Phải chăng vì thói quen xem nặng đồng
tiền cúng dường của mình, và tưởng rằng Tăng sĩ phải lệ thuộc vào đồng tiền
cúng dường ấy? Phải chăng vì tư tưởng lầm lạc rằng “mình nuôi quý thầy”? Và
phải chăng cái thói quen và tư tưởng lầm lạc trên đã tô đậm thêm ý nghĩa dâu
trăm họ cho vai trò của các vị Tăng sĩ nói chung, các vị trụ trì nói riêng?
Trong cuốn Góp Nhặt Cát Đá của
thiền sư Muju (bản dịch của Đỗ Đình Đồng) có một câu chuyện lý thú như sau:
“Vào thời Kamakura, khi Seisetsu là
đại sư của đền Engaku, ông đòi một nơi rộng hơn vì nơi ông dạy đã quá chật
vì đông người. Umezu, một thương gia ở thành phố Edo, quyết định cúng năm
trăm đồng tiền vàng ryo để xây một trường học rộng rãi hơn. Umezu mang số
tiền này đến Seisetsu.
Seisetsu nói: “Được rồi. Tôi sẽ
nhận.”
Umezu biếu túi vàng cho Seisetsu
nhưng Umezu không hài lòng thái độ của Seisetsu. Với ba ryo người ta có thể
sống trọn một năm, và ông thương gia không được Seisetsu cảm ơn việc ông
tặng năm trăm đồng vàng này.
Umezu ám chỉ: “Trong túi đó là năm
trăm ryo.”
Seisetsu đáp: “Ông đã nói với tôi
rồi.”
Umezu nói: “Mặc dù tôi là thương
gia giàu có nhưng năm trăm ryo là một món tiền lớn.”
Seisetsu hỏi: “Ông muốn tôi cảm ơn
ông?”
Umezu đáp: “Vâng, phải vậy.”
Seisetsu hỏi: “Sao lại tôi? Người
cho phải cảm ơn chứ.”
Câu chuyện ấy sẽ khiến cho những
người chưa hiểu đạo giật mình, và có thể khó chịu, bất mãn dùm cho thương
gia Umezu. Nhưng nếu là Phật tử thuần thành, chúng ta hẳn phải mỉm cười cám
ơn đại sư Seisetsu đã cho chúng ta một bài học quý giá về ý nghĩa của sự cho,
sự bố thí, cúng dường.
Đức Phật nói sự tương quan giữa
người thiện tín cúng dường (thí chủ) và Tăng sĩ xuất gia là sự tương quan
giữa con dao và đá mài. Càng mài, dao càng bén, trong khi đó, đá càng mòn.
Có nghĩa rằng, thí chủ khi làm việc bố thí cúng dường sẽ được Tăng thêm
phước báo, còn người thọ nhận sẽ bị giảm thiểu đi nếu không có đức độ xứng
đáng để nhận lãnh vật bố thí cúng dường ấy. Một hình ảnh thông dụng khác là
ruộng phước (phước điền). Tăng sĩ là thửa ruộng để thí chủ gieo trồng phước
đức. Người gieo sẽ được gặt, trong khi đó, đất ruộng càng lúc càng tiêu hao
đi chất màu mỡ nếu không chịu tô bồi thêm. Nếu bố thí cúng dường mà đòi hỏi
sự cảm ơn, nhớ ơn, đối xử đặc biệt, hay đền đáp, thì sự bố thí ấy vốn không
hợp chánh pháp, và được xem như là “thi ân mà có ý mưu lợi” (Luận Bảo Vương
Tam Muội—Mười điều tâm niệm). Như vậy, người thọ nhận càng tỏ ý cảm ơn hay
đền đáp chúng ta nhiều chừng nào, phước đức chúng ta càng ít chừng nấy (nếu
không muốn nói là chẳng có gì). Đây là lý do mà đại sư Seisetsu nói rằng
người cho phải cám ơn người nhận, người nông phu phải cảm ơn thửa ruộng, con
dao phải cảm ơn viên đá mài.
Đó là chỉ nói riêng về việc bố thí
cúng dường. Ngoài việc ấy ra, người cư sĩ tại gia chúng ta còn thâu đạt được
rất nhiều điều lợi ích từ việc tiếp cận học hỏi các vị xuất gia mà ai cũng
biết rõ, không cần phải liệt kê nơi đây.
Điều cần nói nhất là chúng ta phải
nhận thức rõ rệt vai trò cư sĩ học đạo và hộ pháp của mình cũng như sự tương
quan giữa chúng ta với hàng Tăng Bảo. Cái tương quan đó thể hiện sự bình
đẳng về mặt thể tánh, nhưng rất sai biệt trên mặt hình thức sinh hoạt và căn
cơ tu tập. Sự sai biệt đó không cho phép chúng ta nhìn những vị Tăng sĩ như
những nàng dâu của trăm họ nữa.
*
Con đường giải thoát là con đường
gian truân, khổ nhọc, đòi hỏi nhiều tâm chí và nghị lực để thành tựu. Và họ,
chỉ có ho, những người xuất gia với lý tưởng xuất trần và hạnh nguyện xả ly
cao cả, mới vượt qua được một cách vẻ vang. Nhiều người trong số họ đã chứng
minh sự cao đẹp đó bằng chính cuộc đời phạm hạnh thanh tịnh của mình. Vài
người trong số họ đã thất bại và bị cuốn theo dòng thế tục, nhưng cũng có
người sau những cơn trượt ngã khốn cùng, đã gượng đứng dậy, tiếp tục dấn
bước để đi nốt con đường cao đẹp bị dang dở. Dù đến đích một cách êm thắm
hay gặp nhiều vấp ngã, sự nỗ lực của họ vẫn là những chiến công oanh liệt.
Họ vốn không cần những nơi trú ẩn
tầm thường của thế gian mà chỉ có nơi chốn duy nhất để an trú là ngôi nhà
Pháp vương. Họ vốn không cần những lợi dưỡng của thế gian mà chỉ có kho tàng
duy nhất để gìn giữ là kho tàng Như Lai.
Nếu chấp nhận dừng chân ở một nơi
chốn nào thì đó là vì lòng thương xót đối với chúng sinh đau khổ. Lòng
thương xót ấy khiến họ tự nguyện phụng sự chúng ta một cách tận tụy. Có thể
họ khiêm cung tự nhận là những nàng dâu, những nô bộc, hay bằng những vai
trò thấp hèn hơn. Nhưng chúng ta không thể nhìn họ bằng đôi mắt ấy.
Nối gót đức Phật, trên lộ trình
giải thoát giác ngộ, họ là những bậc Thầy cao cả của thế gian.
VĨNH HẢO

|