Tìm Về Bản Sắc Lễ Nhạc Phật Giáo
Việt Nam
Qua Lăng Kính Âm Nhạc Phật Giáo Thế
Giới
GSTS.
NGUYỄN THUYẾT PHONG
Hơn hai ngàn năm trăm năm qua, đạo Phật đã đem đến thế giới
một cái nhìn chân xác về con người với mục đích giải quyết những vấn đề của
con người. Có nhiều pháp môn giúp giải quyết vấn đề này. Một trong những
pháp môn ấy là việc sử dụng âm thanh. Trong đạo Phật, âm thanh là một khoa
học. Nó không thiếu vắng trong bất cứ môi trường nào có Phật tử thực hành
việc tu tập. Âm thanh được thể hiện qua vô số những “tín hiệu” với quy định
khác nhau, khởi đầu là quy định về ngôn ngữ.
Thế giới âm thanh của
đạo Phật mang những sắc thái huyền nhiệm mà khuôn khổ của tham luận này
không thể hàm chứa hết. Một âm “Om” (như trong Om mani padme hum”), một
tiếng “Mamô” hùng tráng trong tiếng Sanskrit (Phạn) mà nay đã trở thành một
dấu ấn Phật giáo ở khắp năm châu (ở nước ta, trở thành “úm” hay “án” và “Nam
mô”). Biến thiên của thanh điệu Phật giáo nương theo nhiều môi trường sống
của người Phật tử và trở thành những nền “âm nhạc” Phật giáo, dị biệt đến
mức độ một Phật tử ở các nước không thể dễ dàng hòa chúng, thậm chí không
thể nhận biết là âm nhạc Phật giáo của mình. Trong quá trình nghiên cứu âm
nhạc Phật giáo ở Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đông Nam Á, cũng như các
nước châu Âu, châu Mỹ, tôi nhận ra được một điều, đó là: Yếu tính “phi giáo
điều” của âm nhạc Phật giáo. Không thể có một mẫu số chung về âm nhạc nghi
lễ Phật giáo. Nhìn theo quan điểm phổ thông hiện nay, Phật giáo không mạnh
như các tôn giáo khác, vì không có trung ương tập quyền. Mỗi Phật tử (Tăng,
ni, và cư sĩ) lại nhận định một cách khác. Phật giáo là một văn minh, văn
hóa, là một nếp sống của chính con người (way of life). Cho nên, trong tự
nhiên cái đạo từ bi ấy sẽ lan tỏa khắp nơi! Hiểu được điểm chủ yếu này mới
thấy được lý do tại sao âm nhạc Phật giáo, nhận định theo quan điểm dân tộc
nhạc học (Ethnomusicology), có nhiều hệ thống (systems), đa dạng và đa năng
đến thế!
Âm nhạc Phật giáo mang tính quốc tế
Thật vậy, trên con
đường truyền bá đạo Phật đến khắp nơi trên thế giới (sớm nhất là châu Á,
chậm nhất là châu Âu, châu Mỹ, châu Phi) đã đem đến những động cơ sáng tác
ngay thời buổi đầu, đóng góp cho nền âm nhạc dân tộc đó với một sắc thái
riêng, và đương nhiên, không phải là sự đồng nhất của một tôn giáo cho một
thế giới. Nhiều Phật tử quên rằng Đức Phật đã không sử dụng tiếng nói và âm
thanh địa phương (như tiếng Việt chẳng hạn). Trong nghiên cứu mang đầy đủ
tính khoa học lịch sử đều phải nhìn nhận điểm này. Nhưng tư tưởng Phật giáo
đã được truyền đạt đến khắp nơi bằng nhiều thứ tiếng, vì Phật giáo không
phải là đạo của một dân tộc duy nhất. Ngôn ngữ của các dân tộc Phật giáo
trên thế giới đều khác nhau. Vì thế, ngôn ngữ sử dụng để truyền đạt “thông
tin” về tư tưởng, triết học, giáo lý, cũng như thực hành giới luật và nghi
lễ Phật giáo đều phải sử dụng ngôn ngữ riêng. Nói rằng pháp môn Thiền không
cần sử dụng đến ngôn ngữ và tín hiệu âm thanh, điều này tôi không nhất trí.
Vì ngay từ đầu các thiền sư bắt buộc phải ít nhiều dùng ngôn ngữ và âm điệu
trong nghi lễ để chuyển tải ý thức (qua một thời kinh, chẳng hạn) và phương
thức hành đạo. Do đó, nhu cầu âm nhạc phải có.
Âm nhạc, theo định
nghĩa thủ cựu của các tôn giáo lớn trên thế giới gồm cả Phật giáo, đều cho
rằng không có mặt trong sinh hoạt của họ. Khi tôi hỏi, các mục sư trong nhà
thờ Baptist, họ trả lời rằng âm nhạc là thể hiện biểu diễn nhạc cụ, nên
không thể có mặt trong nghi lễ Thiên Chúa giáo. Trong các nhà thờ Hồi giáo,
người ta đã cách ly, phân biệt âm nhạc rất rõ, không cho hoặc không gọi là
“âm nhạc” trong nghi lễ. Trong Luật Sa-di Phật giáo cũng có ghi: “Không
được nghe đàn ca xướng hát hoặc cố tình đi xem nghe. Vì cố đi xem nghe sẽ
khơi động mối tâm sinh ra các tội lỗi và làm mất giống trí tuệ”. Tôi có
dịp phỏng vấn nhiều vị tăng trên thế giới về vấn đề và rút ra một câu hỏi
này: Nếu nghe cái điều gọi là “âm nhạc” mà không làm “mất giống trí tuệ” thì
có thể nghe hay không?
Trong một buổi thuyết
trình tại Đại học Harvard vào mùa Xuân năm 2005, tôi đã khẳng định đạo Phật
có một nền âm nhạc thâm thúy và đóng góp rất to lớn cho thế giới, và có mặt
lâu đời hơn tất cả các tôn giáo lớn hiện nay. Nền âm nhạc ấy nhắm đến mục
đích chính là sự giải thoát, trí tuệ. Nền âm nhạc ấy hết sức phong phú và
mang bản sắc độc đáo của một dân tộc, một địa phương. Vì thế, các Phật tử có
thể xem, nghe, thậm chí thực hành âm nhạc, như đã làm từ mấy ngàn năm qua.
Chúng ta thường đặt định (consensus) một ý nghĩa nào đó cho âm nhạc, chứ tự
thân âm thanh, âm sắc, âm hưởng, âm bậc tạo ra nhạc điệu có tính hồn nhiên
và rơi vào ý niệm thể hiện nào đó là tùy của con người, Tăng hay tục. Để
tránh dùng từ “âm nhạc”, người ta có thể nói “lễ nhạc”; tuy nhiên đây chỉ là
một ý nghĩa nối dài của âm nhạc dành cho nghi lễ mà thôi. Chúng ta có thể
bật ra một định nghĩa vững chắc rằng “âm nhạc” là âm thanh được cấu tạo một
cách có tổ chức và có ý niệm rõ rệt về mặt văn hóa con người. Âm nhạc Phật
giáo là một thể hiện cụ thể trong môi trường văn hóa Phật giáo và có chủ
trương và mục đích riêng.
Thật vậy, âm nhạc Phật
giáo có mặt khắp các chùa chiền quanh trái đất. Đạo Phật hiện nay mở rộng ra
cho cả nhân loại. Trước đây người ta thường định nghĩa về Phật giáo Đại thừa,
Nguyên thủy và nét đặc trưng theo vùng địa lý (Đông Á, Đông Nam Á, Tây Tạng,
v.v…). Trong thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay, định nghĩa ấy hầu như vô hiệu.
Người Tăng sĩ Mỹ, Pháp, hay Đức có thể thực hành đạo Phật theo Đại thừa
(Mahayana), Tiểu thừa (Theravada), Kim Cương thừa (Vajrayana), hoặc tổng hợp
các tông phái trên. Đó là chưa kể đến các trường phái Phật giáo mang tính
địa phương chẳng hạn như Nichiren, Shokagakkai, Hòa Hảo, Cao Đài, hoặc
Tenrikyo ở Nhật. Thậm chí đạo Mẫu (chầu văn) Việt Nam cũng mang rõ rệt sắc
thái của đạo Phật.
Như vậy, lấy trường hợp
âm nhạc của các Phật tử Âu Mỹ, chúng ta sẽ hiểu như thế nào? Các nghi lễ có
thể dùng âm nhạc xuất phát từ một chùa theo truyền thống Nhật, Hoa, Hàn,
Thái, Việt, hay Tây Tạng do các di dân châu Á mang đến. Đây là những Tổ đình,
nơi truyền thừa văn hóa và giáo lý Phật giáo đầu tiên. Có nhiều yếu tố hỗn
hợp tạo thành âm nhạc trong nghi lễ Phật giáo. Điều này đòi hỏi sáng tạo rất
nhiều vất vả cho Phật giáo Mỹ cũng như Pháp, Đức, Tây Ban Nha, v.v… nơi có
truyền thống lâu đời của Thiên Chúa giáo. Dù vậy, những bài thuyết pháp
(Dharma teaching) tạo sự thu hút rất lớn, nhất là trong giới trí thức như
học giả, nghệ sĩ. Đặc biệt hơn nữa là giới tu sĩ cấp tiến của các tôn giáo
khác như linh mục Công giáo, mục sư Tin lành, các giáo sĩ Do Thái và Hồi
giáo cũng đều tìm về với đạo Phật như một kinh nghiệm học hỏi, lối thoát để
mở rộng tầm nhìn của họ. Ở Hoa Kỳ, Giáo hội Tin lành Unitarian nhận các buổi
thuyết pháp và nghi lễ Phật giáo vào ngày trong buổi thánh lễ Chủ nhật.
Trong chiều hướng ấy, tôi cũng thường được mời thực hiện các khóa lễ này.
Thỉnh thoảng tôi cũng được sự hỗ trợ nghi thức tụng niệm của đoàn thánh ca
tại nhiều nhà thờ ở Mỹ. Nghi thức này được điều chỉnh để thích nghi vào môi
trường âm nhạc sở tại.
Vì Phật giáo xuất
phát từ cái nôi châu Á, việc truyền bá âm nhạc qua phương thức đọc tụng kinh
điển Phật giáo trên thế giới trước nhất mang nhiều sắc thái châu Á. Các
truyền thống âm nhạc Phật giáo trên thế giới vì thế phải quy vào cơ sở trước
tiên là văn bản kinh điển rồi sẽ đọc tụng, hát những bài kinh này với âm
hưởng địa phương, hoặc hỗn hợp cả hai. Về mặt ngôn ngữ, tiếng Sanskrit và
Pàli của Ấn Độ thường dễ được áp dụng vì gần gũi với tiếng Ấn - Âu, rồi sau
đó là tiếng Hoa, Nhật, Hàn, Việt, v.v… hay tiếng Anh, Pháp, Đức. Những câu
kinh ngắn dịch sang tiếng Anh từ Kinh Pháp Cú (Dharmapada) là cách đọc tụng
dễ nhất cho Phật tử quốc tế. Về mặt nhạc điệu, trường hợp ở Hoa Kỳ hiện nay
Ủy ban Nghi lễ của Amercan Buddhist Congress (Giáo hội Phật giáo Mỹ) còn
đang trong vòng tổ chức ấn định nghi lễ và yêu cầu các Phật tử gồm nhà thơ,
nhà văn, nhạc sĩ đóng góp công sức vào công trình này, thậm chí có thể phần
nào tùy duyên dựa vào kiến thức Thiên Chúa giáo họ sẵn có. Nhiều Phật tử ở
Mỹ thường là những nhà âm nhạc và nghệ thuật (thi ca, điện ảnh, v.v…) nổi
tiếng trên thế giới như John Cage, Philip Glass, Harrison Ford, Richard Gere,
Laurie Anderson, Allen Ginsberg, v.v… Đây là nền tảng để có thể kết hợp hài
hòa các yếu tố âm nhạc châu Á vào trong ấy và kiến tạo âm nhạc Phật giáo Mỹ
khả dĩ có thể đứng độc lập.
Tại châu Á, chúng ta
cũng phải nhận ra rằng âm nhạc nghi lễ Phật giáo đã thấm sâu từ hàng ngàn
năm và mang màu sắc đặc trưng ở mỗi quốc gia. Trong mỗi quốc gia lại có
nhiều dị bản tùy vào vùng, miền. Có ba hệ thống kinh điển và nghi lễ chủ yếu
xuất phát từ ba tông phái lớn: Đại thừa, Nguyên thủy, và Kim Cương thừa.
Nghi lễ Đại thừa và Kim Cương thừa (Tây Tạng và Trung Á) có chủ trương giống
nhau là hội nhập hầu như toàn diện vào bản sắc địa phương. Ngược lại Phật
giáo Nguyên thủy ở Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào, và Việt Nam thể hiện
phần nào tính xuyên quốc gia qua hình thức đọc tụng tiếng Pàli và Sanskrit.
Một phần trong nghi lễ thể hiện nhạc điệu dân tộc qua các thơ, kệ được dịch
ra tiếng địa phương. Phần này rất nhỏ. Các sư tăng ở Thái Lan gọi âm nhạc
nhà chùa là “thét” (giảng kinh). Có thể vì quan niệm như thế, mục tiêu đọc
tụng gần với âm vận bình thường như tiếng nói (Pàli) nên âm quãng bị rút
ngắn lại trong phạm vi ba âm. Chính đây là điểm khác biệt với truyền thống
âm nhạc Phật giáo Đại thừa và Kim Cương thừa, nơi các kinh điển Sanskrit
được dịch ra từ hơn ngàn năm và đã được dân tộc hóa trong âm nhạc. Vì thế,
các nền âm nhạc này thể hiện rõ rệt tính cách của âm nhạc Kim Cương thừa ở
Tây Tạng và Trung Á cũng như Đại thừa ở Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, và
Nhật Bản.
Bản sắc của âm nhạc Phật giáo Việt Nam
Tìm về bản sắc âm
nhạc Phật giáo Việt Nam đòi hỏi phải có sự đối chiếu với các truyền thống có
dạng biểu hiện liên kết tương tự về mặt lịch sử và văn hóa, trong bối cảnh
truyền bá đạo Phật từ khởi nguyên, về mặt ngôn ngữ, chữ Hán đóng vai trò
quan trọng ở Đông Á và Việt Nam. Kinh điển Đại thừa chủ yếu cho các nghi lễ
đã được chuyển dịch từ tiếng Sanskrit sang tiếng Hán ở Giao Châu rồi từ đó
mới đến tiếng của mỗi dân tộc Hán - Hoa, Hàn, Nhật. Đó là do tại sao chữ Hán
cổ bị đồng hóa vào tiếng ở mỗi địa phương với cách đọc chữ Hán của các sư
tăng. Ngay ở Trung Quốc rộng lớn cũng có nhiều phương ngữ khác nhau, hệ
thống nhạc điệu khác nhau. Sự đánh mất vai trò trọng yếu của ngữ âm Hán này
đã làm rõ nét tính dân tộc trong thanh nhạc nghi lễ Phật giáo tại Việt Nam
rất sớm, vì âm đọc tụng đi trước khí nhạc. Có ba vấn đề cần đặt ra: lịch sử
truyền bá Phật giáo, hệ thống âm nhạc, và địa bàn hoạt động của âm nhạc.
Chúng ta có thể giả
định rằng từ ba thế kỷ thứ đầu Tây lịch khi 15 bộ kinh đã được dịch cùng lúc
với việc xây dựng 20 ngôi chùa, Tăng đoàn gồm 500 vị (theo Thiền Uyển Tập
Anh) qua sự hiện diện của Mâu Tử, Tăng Hội, Đạo Thanh, lúc ấy Nê hoàn bối,
Pháp Hoa Tam Muội kinh được dịch. Dù sao, sách nhạc Nê hoàn bối nước ta thời
đó dù “thanh điệu phù mỵ, buồn bã nhưng thanh cao làm khuôn mẫu cho một thời”
(thanh mỵ ai lượng, nhất đại mô thức) (Cao Tăng Truyện). Chúng ta có thể
hiểu phải chăng đây là những bài tán mang hơi ai thời cổ (?). Thật khó có
thể khẳng định được yếu tố âm nhạc Ấn Độ hoặc Trung Hoa trong ấy ngay từ
thời buổi đầu với một khi tư tưởng Đại thừa phóng khoáng. Tư tưởng này phát
triển rất mạnh ở hai trung tâm Phật giáo Gandhara và Amaravatti cho phép
tiếp nhận yếu tố địa phương làm nền tảng văn hóa tiến đến sáng tạo âm nhạc
nghi lễ riêng.
Chúng ta không thể bàn
về Phật giáo Nguyên thủy để so sánh, dù nó đang có mặt trong nhiều quốc gia
Đông Nam Á. Lý do là vì Phật giáo ở Thái Lan, Lào, Campuchia, và Myanmar có
mặt rất muộn (khoảng một ngàn năm sau Việt Nam) và Indonesia và Philippines
đã bị tiêu diệt bởi những người Hồi giáo hồi thế kỷ XIII đến nay chỉ còn lại
2% trong dân số. Hai quốc gia Đông Nam Á này thành lập cũng khá muộn so với
Việt Nam. Trước đó các dân tộc bản địa hẳn nhiên tiếp nhận tư tưởng Đại thừa
(chứ không phải Tiểu thừa), còn tàn ích tìm thấy ở trung tâm Phật giáo
Borobudur.
Như thế, về mặt lịch sử, đạo Phật đã đến Việt Nam (trước đây có
nhiều tên gọi khác như Giao Châu, Nam Việt, Đại Nam, v.v…) sớm nhất ở vùng
Cực Đông. Căn cứ vào nghiên cứu đã được cập nhật, chúng ta được biết con
đường thủy sớm nhất đã đưa Phật giáo Ấn Độ đến Trung Quốc xuyên qua Việt
Nam. Dù rất thông suốt chữ Hán, trong lịch sử ngôn ngữ Việt Nam chưa bao giờ
ghi nhận việc người Việt hay các Thiền sư Việt phải nói tiếng Hán. Nhưng
việc học để đọc được tiếng Hán bằng cách phát âm Việt là chuyện hiển nhiên.
Điều này có liên quan đến việc tụng, tán trong âm nhạc Phật giáo ở nước ta
từ thời cổ đại vẫn có truyền thống sử dụng tiếng Hán - Việt.
Phật giáo Đông Á dùng
danh từ “Thanh minh” (Shengming, tiếng Hán; Shômyô, tiếng Nhật) để chỉ “âm
thanh {tiếng tụng kinh} trong suốt” được hiểu như thanh nhạc Phật giáo. Phạn
bối (Trung Quốc: fanpai, Hàn Quốc: pomp’ae, Nhật Bản: bombai) là một chuyên
ngữ thông dụng với ý nghĩa “Lễ nhạc Phật giáo” ở Đông Á. Chuyên ngữ này
không áp dụng trong Phật giáo Việt Nam. Ngoài ra có một từ ngữ chung là tán
bài tỏ sự ca ngợi. Nhưng ý nghĩa và cơ cấu nhạc điệu không đồng nhất. Ở Nhật
Bản, từ tán không chỉ nhạc điệu mà chỉ sự phân loại văn bản như wasan (hòa
tán) là tụng kinh theo văn bản Nhật (Hòa, bonsan (Phạn tán) là những thần
chú phiên âm ra từ tiếng Sanskrit sang âm Hán rồi đến âm Nhật, và hansan (hán
hán) là văn bản kệ tụng sử dụng ở Trung Quốc với chữ Hán (dĩ nhiên, phát âm
theo cách Nhật). Ở Hàn Quốc, pomp’ae (phạn bối) chia thành hai thể loại:
pomp’ae hitsori và pomp’ae chitsori để chỉ hai thể tụng đơn giản và thể tán
phức điệu.
Ở Việt Nam chúng ta
không dùng một từ duy nhất để chỉ âm nhạc Phật giáo. Các nghi lễ có thể được
gọi đọc canh (kinh) ở Bắc Bộ, tụng niệm hoặc tụng tán ở Trung và Nam Bộ.
Nhưng vì không thể nói lên hết được âm nhạc, Phật giáo Việt Nam có một hệ
thống thuật ngữ riêng để chỉ thanh nhạc với ý nghĩa trực tiếp (nhạc điệu của
bài hát như thế nào?) và khá phức tạp với 10 thể nhạc như đọc, tụng, tán,
niệm, trì, xướng, bạch, thỉnh, kệ, và sám pháp. Qua nghiên cứu âm
nhạc học, mỗi thể nhạc này đều có một định nghĩa riêng, một quy luật về điệu
thức (mode) riêng gồm thang âm (scale), cách luyến láy (ornament), đẳng cấp
cung bậc (hierachy of pichthes), mô thức giai điệu đặc trưng (melodic
pattern), môi trường ứng dụng (medium) và đặc biệt là tình cảm của nét nhạc
(emotion). Để hiểu nét đặc trưng của mỗi thể nhạc này, chúng ta có thể lấy
một ví dụ đi ngược tiến trình bằng môi trường diễn xướng của một bài kệ khai
chuông khác với môi trường diễn xướng của trì chú (Lăng Nghiêm, Thập chú,
v.v…). Hai địa điểm trình bày này không giống nhau. Một nơi có đại hồng
chung, ở một vị trí riêng, và đơn ca (tức kệ chuông một mình). Văn bản của
một bài kệ của các Thiền sư Việt Nam sáng tác khác với bài chú. Bài kệ
chuông (hoặc gọi là “hô” chuông) được diễn tả dưới dạng phi tiết tấu
(non-metric). Bài chú được hiểu như hát tập thể, văn bản phiên âm Phạn - Hán
- Việt, phương pháp tiến hành giai điệu và tempo (nhịp tiết đều) sẽ khác với
bài kệ chuông.
Âm điệu Việt phong phú là nhờ ở
ngôn ngữ Việt áp dụng triệt để các ngữ âm rất giàu có, đậm đà, phức thể so
với nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Một già Tán lư hương cũng đủ nói lên
điều ấy. Phát âm rõ ràng trong mỗi thể nhạc, chỉ có người “trong nghề” mới
nhanh chóng nhận ra. Ở Nam Bộ, nghi công phu khuya cũng đã nói lên đầy đủ
các thể nhạc đi từ bài Kệ khai chuông đến tụng và trì chú Lăng Nghiêm (khó
đối với giới cư sĩ), đến Tán tứ thánh, Tam tự quy. Đây là môi trường diễn
xướng âm nhạc Phật giáo đặc trưng thiền dành riêng cho Tăng sĩ các chùa,
khác với những thời Tịnh độ dành cho đông đảo Phật tử cư sĩ tham gia. Sự
thanh tịnh của đêm khuya, lúc người trần đang say ngủ, đó chính là thời khắc
tọa thiền rồi đến công phu. Sự kết hợp giữa Thiền tông và Tịnh Độ tông cũng
là nét tiêu biểu của Phật giáo ở Việt Nam.
Những trai đàn chẩn tế đòi hỏi
việc đào tạo Tăng tài ứng phú ở các tổ đình lớn một chuẩn mực và vô cùng
khít khao. Các Tăng sinh phải trải qua một quá trình học tập rất nhiều năm,
đặc biệt phải có năng khiếu âm nhạc cao để vừa tụng vừa tán hay, vừa đối tác
với dàn nhạc lễ từng giây từng phút thật khít khao. Truyền thống Ứng phú có
ít ra từ thời Trần (thế kỷ 13-15) cùng lúc với Tọa thiền và Du phương. Ba
trường phái chuyên môn này đã giúp tinh lọc, hướng khả năng người tu học về
phần chuyên để phục vụ đạo pháp một cách cụ thể và hữu hiệu. Những danh sư
thường được nhắc đến ở miền Tây (Cần Thơ, Bạc Liêu, Sa Đéc), và miền Đông vì
họ nổi tiếng qua âm nhạc nghi lễ hoành tráng.
Đi đến đất Nam Bộ, âm nhạc Phật
giáo đã xuyên suốt, rút tỉa nhiều kinh nghiệm nghi lễ của phía Bắc và Trung.
Mặc dù thống kê của tôi có thể chưa hoàn hảo, ít ra hơn 350 bài kinh kệ và
hơn 100 nghi lễ lớn nhỏ từ trong thiền môn ra đến tư gia Phật tử là một kho
tàng đồ sộ để thực hành và tham khảo mà khó có một nước Phật giáo nào có thể
so sánh. Những trai đàn chẩn tế kéo dài nhiều ngày quy tụ các bậc tài năng
từ thanh nhạc đến khí nhạc. Những nghi lễ Khai chung cổ, Đàn quang, Đàn
trình, Kinh đàn, những khoa nghi Mông sơn Thí thực, v.v… kết hợp với hát bội
(tục gọi “trong chay, ngoài bội”). Thủy lục chư khoa là một tập kinh quan
trọng phổ biến trong Phật giáo Bắc tông. Từ Trung Quốc vào tay của các kinh
sư Việt Nam, tức khắc thích nghi và trở thành “bài hát” và phối dàn nhạc lễ
dân tộc.
Dàn nhạc lễ có một cấu trúc độc
đáo về hai mảng khí nhạc: dây (văn) và bộ gõ (võ), không giống bất cứ dàn
nhạc Phật giáo nào trên thế giới. Nó theo sát những bài kệ, tụng, tán trong
nhà chùa. Đặc trưng của “phe văn” là theo thanh nhạc và “phe võ” là động tác
di chuyển gồm lễ lạy hay “chạy” kinh đàn. Đây là một cấu trúc tinh vi, có ý
nghĩa về mặt tâm lý, xã hội, triết lý giữa tĩnh và động. Nhạc công theo dõi
và đáp ứng ngay một khi bài tán Hương huê thỉnh, Dương chi, Nguyện tiêu…
Nguyện sanh, v.v… bất chợt nghỉ, chuyển qua lễ lạy, rồi trở lại bài tán hoặc
chấm dứt. Vì thế, có thuật ngữ “quăng bắt” giữa kinh sư và ban nhạc chứng tỏ
sự nhanh nhẹn tài tình để theo kịp trong mọi tình huống. Nhiều thuật ngữ
“nhà nghề” chỉ có trong giới kinh sư và dàn nhạc lễ hiểu nhau. Những ai đã
từng chơi trong một dàn nhạc giao hưởng Tây phương sẽ có thể nhận ra nét cực
kỳ tế nhị trong môi trường diễn tấu này.
Kết luận
Tóm lại, tìm về bản sắc lễ nhạc
Phật giáo dân tộc, chúng ta lại thấy hiển lộ những nét độc đáo qua nhiều góc
độ lịch sử, nhân văn, và âm nhạc. Nghiên cứu khoa học trong nhiều thập niên
qua đã cho thấy sự hiện diện của âm nhạc Phật giáo rất dài lâu đến hàng hai
ngàn năm qua. Đó là sự kiện hiển nhiên. Đến những đại lễ trong cung đình
thời Lý, thời Trần đã ghi nhận sự có mặt của âm nhạc đạo Phật. Một ngàn năm
trước đây, Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi lại đại lễ khánh thành chùa Diên
Hựu (tức chùa Một Cột hiện nay) dàn đại nhạc tấu với hàng trăm nhạc công đi
vòng quanh hồ sen. Đó là một trong những chứng cứ về sự hiện diện của dàn
nhạc lễ. Còn có biết bao những nghi lễ khác với tầm cỡ lớn như thế. Đó cũng
chính cho thấy tổ chức dàn nhạc “giao hưởng” theo kiểu Việt Nam đã xuất hiện
rất sớm so với bao nhiêu nước trên thế giới. Về mặt cấu trúc thể hình, phối
khí và bài tán, dàn nhạc Phật giáo còn đa dạng rất nhiều tùy theo vùng địa
lý trên đất nước ta với tên gọi bát âm (miền Bắc), đại nhạc - tiểu nhạc (Huế),
nhạc lễ (miền Nam).
Truyền thống âm nhạc Phật giáo
rất to lớn. Đó là do công lao đóng góp của các kinh sư bậc Tổ. Các vị Tổ này
có tấm lòng cao cả vì sự nghiệp âm nhạc dân tộc mà sáng tạo, phát triển để
gìn giữ bản sắc Việt. Một trong những vị ấy hôm nay đáng trân trọng trên
đường tìm hiểu, ghi nhớ công ơn, và chúng ta thành tâm đảnh lễ trong Hội
thảo này là ngài Nguyệt Chiếu.
NGHI
LỄ PHẬT GIÁO BÌNH
ĐỊNH
Du Già Khoa Nghi
hay Nghi thức Chẩn Tế 001- Chư
Tăng Bình Định (mp3)
Du Già Khoa Nghi
hay Nghi thức Chẩn Tế 002- Chư
Tăng Bình Định (mp3)
Du Già Khoa Nghi
hay Nghi thức Chẩn Tế 003- Chư
Tăng Bình Định (mp3)
Du Già Khoa Nghi
hay Nghi thức Chẩn Tế 004- Chư
Tăng Bình Định (mp3)
Du Già Khoa Nghi
hay Nghi thức Chẩn Tế 005- Chư
Tăng Bình Định (mp3)
Du Già Khoa Nghi
hay Nghi thức Chẩn Tế 006- Chư
Tăng Bình Định (mp3)
Du Già Khoa Nghi
hay Nghi thức Chẩn Tế 007- Chư
Tăng Bình Định (mp3)
Du Già Khoa Nghi
hay Nghi thức Chẩn Tế 008- Chư
Tăng Bình Định (mp3)
Du Già Khoa Nghi
hay Nghi thức Chẩn Tế 009- Chư
Tăng Bình Định (mp3)
Các bài tán phổ thông - Chư
Tăng Bình Định (mp3)
THIỀN
MÔN TẢO KHOÁ
Công Phu Khuya - Thích Giác Đức (mp3)
|