Nhìn Xe Tang Qua Phố
Nguyễn Ngọc Quý
Một chuyến xe tang đi qua là chở một thân phận đi qua. Một chuyến xe tang đi
qua, để lại sau họ những mất mát, buồn thương không gì bù đắp được. Và đằng
sau chuyến xe tang ấy có biết bao những chuyện đời vui buồn…
Mỗi khi thấy chiếc xe tang nào đi qua, tôi lại không thể quên được
câu chuyện trong kinh Phật kể về một người mẹ đáng thương, ôm xác đứa con
xinh xắn của mình chạy khắp nơi để tìm thuốc hồi sinh. Khi nghe nói Đức Phật
có phương thuốc làm cho người chết sống lại, người mẹ đã đem xác con mình
đến tận nơi để cầu xin sự cứu giúp. Đức Phật không từ chối mà cũng không có
ý định gạt ngay sự mất mát bi thương ra khỏi lòng người mẹ. Người chỉ có một
yêu cầu, nếu người phụ nữ ấy có thể tìm được những hạt cải trong một gia
đình chưa từng có người thân nào qua đời, thì hãy mang những hạt cải đó về,
Người sẽ dùng chính những hạt cải ấy để làm cho đứa bé sống lại. Người mẹ
mừng rỡ ôm xác con đi tìm khắp trong làng ngoài thôn, nhưng trớ trêu, không
một gia đình nào có thứ hạt cải ấy, vì không ít thì nhiều trong đời có ai
không một lần phải chứng kiến cảnh mất người thân. Người phụ nữ đã nhanh
chóng giác ngộ ra sự thật đó. Sau khi chôn xác đứa con bé bỏng của mình xong,
bà đã đến đảnh lễ và quy y với Đức Phật.
Mỗi khi thấy chiếc xe tang nào đi qua, tôi lại nhớ đến câu thơ của
Đỗ Trung Quân: “… Ngả nón đứng chào xe tang qua phố. Ai mất mẹ sao lòng
ta hoảng sợ. Ngày tháng kia bao lâu nữa của mình…”. Đó là tâm trạng của
một người con sợ chứng kiến cảnh một ngày kia mình sẽ không còn mẹ, sẽ mồ
côi, sẽ bơ vơ… Nhưng mồ côi, bơ vơ có ý nghĩa gì bằng khi một ngày kia người
con không được chăm sóc mẹ, không được chia sẻ những vui buồn trong đời với
mẹ, hay chỉ đơn giản là không được chào hỏi mẹ mỗi khi đi - về, không được
nhìn thấy mẹ vui khi ăn một món thật ngon do tự tay mình nấu, mặc một chiếc
áo thật đẹp do tự tay mình mua…
Bản thân tôi phải sống xa mẹ, nên tự hổ thẹn khi không làm được
những điều đơn giản nhất. Trong cuộc sống tha hương bận rộn của mình, tôi
chỉ biết hằng đêm dành mấy mươi phút để niệm Phật và nhớ nghĩ về mẹ. Mỗi khi
tôi vấp ngã, nghĩ đến mẹ là tôi lại tự mình đứng dậy. Mẹ là Phật. Mẹ thương
con như Phật thương chúng sanh. Biết vậy mà tôi vẫn có tâm trạng hoảng hốt
như nhà thơ kia.
Mỗi khi thấy chiếc xe tang nào đi qua, tôi lại nghĩ đến những tiếng
kêu đớn đau bật ra thành lời, hay còn nghẹn lại ở trong lòng những người vợ
khóc chồng. Và đâu đó, tiếng khóc vợ bi ai ngày nào của Phạm Thái
(1777-1813) trở về: “Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi tình cho nấn ná
nhân duyên; mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàng
tính mệnh. Cho đến nỗi hoa rơi lá rụng, ngọc nát châu chìm, chua xót cũng vì
đâu, não ruột cũng vì đâu? Nay qua nấm cỏ xanh, tưởng người phận bạc, sụt
sùi hai hàng tình lệ, giãi bày một bức khốc văn, đốt xuống tuyền đài tỏ cùng
nương tử”. Tiếng khóc thương của người xưa vẫn còn cho tôi một chút niềm
tin rằng, lời đồn về những quý ông thời hiện đại, vợ tuy còn đó, môi vẫn đỏ,
má vẫn hồng mà đã thay lòng đổi dạ, không phải là phổ biến.
Mỗi khi thấy chiếc xe tang nào đi qua, tôi lại nhớ đến lời chiêu
hồn tha thiết của cụ Nguyễn Du: “Mỗi người một nghiệp khác nhau. Hồn siêu
phách lạc biết đâu bây giờ?”. Cái nghiệp mà cụ nói ở đây là cái nghiệp
tự tạo: thiện có ác có, xấu có tốt có. Tuy khác nhau là như thế nhưng chết
đi thì đều bi thương cả. Cụ chiêu hồn từ những người “mũ cao áo rộng”, lính
thú chinh chiến, đến những người “buôn son bán phấn”, người đi ở, người cô
thân, người vô tình chìm sông lạc suối, người có đẻ không nuôi… Và những
cảnh đời khác nhau đầy bi thương, trắc ẩn ấy, đã đưa chữ nghiệp của Nguyễn
Du bao trùm lên mọi thân phận trong xã hội. Nhưng cụ không lên án điều gì cả.
Cụ chỉ đặt câu hỏi để người đời sau tự trả lời: “Kiếp sinh ra thế biết là
tại đâu?”, “Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?”, “Hồn đường
phách xá lạc loài nơi nao?”…
Tôi cũng như bao nhiêu người khác, đều có một lý lịch về nghề
nghiệp…, nhưng tôi chỉ biết chăm chăm với nghề mà quên đi nghiệp đang tạo
của mình. Hàng ngày, đọc những trang báo đầy những cảnh giết nhau một cách
tàn nhẫn mà không khỏi băn khoăn về lòng nhân trong cuộc sống. Đó là hệ quả
của sự dồn tụ biết bao nhiêu cộng nghiệp, biệt nghiệp. Nhưng tôi vẫn thảng
thốt, không biết lấy nghiệp nào để lý giải khi năm cô bé tuổi còn chuồn
chuồn kim đã rủ nhau cùng nhảy sông tự tử. Và một lần nữa, câu hỏi của cụ
Nguyễn Du vẫn từ mấy trăm năm qua vẫn còn đang bỏ ngỏ… Ai cũng muốn trở
thành người hiểu được Tố Như. Nhưng phải chăng khóc Tố Như chính là chuyện
khóc đời, thương đời? Tôi chỉ biết theo cụ niệm tiếng “Nam mô…” để hóa giải
những bàng hoàng trong tinh thần, để có nhiều hơn niềm tin yêu ở mỗi con
người.
Mỗi khi thấy chiếc xe tang nào đi qua, tôi lại đem cái nhìn bình
đẳng của cụ Nguyễn Du mà niệm Phật, răn mình. Trong xe tang ấy, có người
đang viết lên lịch sử cuộc đời mình, có người bị đời ruồng bỏ - lãng quên,
có người đã từng đầm ấm hạnh phúc, có người tủi phận cô đơn, có người ác, có
người hiền… Nhưng họ đều đã có nơi để đi về theo nghiệp riêng của mình. Bất
kể những chiếc xe tang nào đi qua, người nằm đó, có tôn giáo, tín ngưỡng hay
không, tôi đều dành cho họ một câu niệm Phật. Có những điều tẻ nhạt, có
những sự thú vị nơi mỗi cái chết, nhưng đó đều là những đối thoại không dứt
với riêng tôi về thân phận con người. Tôi nghĩ rằng, cái chết đến với con
người cũng không phải là chuyện hoàn toàn đau khổ, vì chỉ có ở đó, mọi toan
tính ích kỷ, mọi hờn ghen, thù hận, mọi công danh, tiền bạc mới trở nên vô
nghĩa…
Nhưng cũng mỗi khi thấy xe tang qua phố, tôi lại vô tình chạm phải
những ánh mắt không vui nhìn vào đoàn người đang đi, xem đó như là hành vi
làm kẹt giao thông. Đằng sau con mắt ấy là gì…, tôi không hiểu. Có lẽ nào,
sự bận rộn của cuộc sống mưu sinh đang chia tách con người ra thành từng
mảng, đến nỗi phải giành sống với người chết để đi, mặc dù chỉ mất có năm
phút đoạn đường. Cuộc sống còn rất nhiều liên đới với nhau, mà ở đó, nghĩa
tử luôn là nghĩa tận, và bởi cái chết còn cho ta hiểu thêm về tình bằng hữu,
tình hàng xóm láng giềng. Xin hãy ngả nón tiễn biệt nhau, không phải với ánh
mắt của những người xa lạ, vô tình.
Cũng như những lần khác, hôm nay tôi lại “ngả nón đứng chào xe tang
qua phố” và thêm một tiếng niệm Phật, một lời nguyện cầu, mong người ra đi
sẽ bỏ qua tất cả vui buồn trong kiếp sống mà để lòng thanh thản. Nhìn chiếc
xe tang dần xa khuất, tôi chợt hiểu chúng ta không phải là những người tù
của bản thân mình. Cuộc sống tốt đẹp còn ở mãi ngoài kia…
Nguyễn Ngọc Quý
(Theo
Văn Hóa Phật Giáo)

|