THÀNH TỰU CAO CẢ CỦA TRÁI TIM
TÂM DIỆU PHÚ
dịch
Tình thương, bi mẫn và an lạc – các từ ngữ
này nằm ở tận đáy lòng của những hành giả tu tập. Mặc dù chúng ta rung cảm
một cách trực tiếp trước ý nghĩa và giá trị của chúng, điều thách thức đối
với phần lớn chúng ta là làm sao thể hiện được những gì mà mình thấu biết:
Làm thế nào chuyển đổi những từ ngữ này thành ra một sự thực tập sống động.
Trong thời đại xung đột và bấp bênh này, đây không phải là một sự thực tập
trừu tượng. Nền hòa bình của thế giới bắt đầu từ tâm tư an bình trong mỗi
một người chúng ta, và có nhiều cách thức khác nhau mà ta có thể biểu hiện
những giá trị này qua những hành động khôn khéo trong cuộc sống. Những lời
dạy này được căn cứ trên các truyền thống Phật giáo Đông phương, nhưng đặc
tính định rõ ranh giới của chúng thì không thuộc về Đông phương hay Tây
phương, mà chính là một tâm nguyện thiết tha đối với chủ trương thực dụng và
là một nghi vấn thật đơn giản: Có kết quả gì? Có tác dụng tháo gỡ tâm thức
thoát khỏi phiền não ra sao? Có ảnh hưởng thế nào đối với việc làm phát khởi
tâm bi mẫn? Có tác động gì trong việc làm ta thức tỉnh từ cơn mê vô minh?
Đường lối thực dụng này cũng làm sáng tỏ một
câu hỏi có từ ngàn xưa mà nó tiếp tục quấy rầy các truyền thống tôn giáo
cũng như các truyền thống khác: Làm thế nào chúng ta vẫn có thể giữ vững
các quan điểm khác xa nhau trong một khung cảnh chung sống hài hòa rộng lớn
hơn, vượt ra ngoài thái độ bất hòa và thù nghịch? Lời đáp cho câu hỏi này có
tầm quan trọng sống còn, nhất là trong tình trạng hiện nay, như chúng ta đã
thấy là sự lan rộng nhanh mạnh của các truyền thống tôn giáo thường đi kèm
với các cuộc va chạm bạo động.
Cầu Mong Cho Mọi Loài Đều Được
Hạnh Phúc
Từ vựng tiếng Phạn, “maitri,” và từ vựng
tiếng Pali, “metta,” đều có nghĩa là “tâm từ” hay là “sự quan tâm thương yêu,”
và nói đến một thái độ thân tình, thiện ý và khoan dung của trái tim. Khi
trong ta tràn đầy tâm từ, ta có một ước mong thật tự nhiên: Mong sao cho mọi
loài đều được hạnh phúc. Loại tình thương này có nhiều đặc tính ưu tú, khác
hẳn với những kinh nghiệm yêu thương thường tình có pha trộn lòng tham dục
hoặc là dính mắc. Được phát sinh từ tâm lượng bao dung vô cùng rộng lớn, tâm
từ là lòng quan hoài và tử tế mà nó không hề mong cầu lợi lộc cho riêng mình.
Tâm từ không mong cầu sự đền đáp: “Tôi sẽ thương bạn nếu như bạn thương tôi,”
hoặc là “Tôi sẽ thương bạn nếu như bạn hành xử theo một lề thói cung cách
nào đó.” Do bởi tâm từ không khi nào có dính líu tới bất cứ điều gì tai hại,
tâm từ luôn phát khởi từ một trái tim thuần khiết trong sáng.
Một trong những khía cạnh độc đáo của tâm từ
là nó không phân chia loài nào cả. Khi nào ta cảm nhận một tình thương bị
trộn lộn với lòng tham dục, thì cảm xúc này chỉ luôn luôn dành cho một số
người nào đó mà thôi. Ta có thể yêu thương và ham muốn một, hai hay ba người
cùng một lúc, hoặc giả vài người theo từng đợt nối tiếp nhau. Nhưng có ai
trong đời này lại thiết tha mong muốn hết thảy mọi loài?
Mặc khác, tâm từ có tính chất thật đỗi khác
thường do vì nó có thể ôm trọn mọi loài; không loài nào rớt ra ngoài phạm vi
của nó. Đó là tại sao, khi ta gặp gỡ những người phát huy được khả năng này
tới một mức độ cao thâm, lấy ví dụ là
đức Đạt Lai Lạt Ma, ta cảm nhận được tấm
lòng nhân từ bao la của họ hướng tới tất cả mọi người. Tâm từ là một loại
cảm xúc mà nó gia hộ cho những người khác và cho chính mình với niềm ước
mong tự nhiên, “Được sống hạnh phúc.” Thi sĩ người Nhật, Issa (1763-1828),
đã diễn tả cảm xúc trải rộng cõi lòng này thật là tài tình: “Dưới bóng mát
của chùm hoa anh đào, không có ai là xa lạ cả.”
Mặc dù không phải lúc nào ta cũng sống trong
một trạng thái cảm xúc thương yêu kiên định, nhưng qua sự thực tập ta có thể
tiếp xúc với nó nhiều lần trong một ngày.
Thực Tập Tâm Từ Đối Với Chính
Mình
Một cách để phát triển tâm từ trong ta là
thông qua sự thiền tập, ta bắt đầu bằng cách ban rải những cảm xúc thương
yêu hướng về tự thân.
Thật là đơn giản: Trước tiên, hãy ngồi trong
tư thế thoải mái và duy trì một hình ảnh trong tâm hoặc cảm giác về chính
bạn, lặp lại chầm chậm các cụm từ về tâm từ cho chính mình: Mong sao cho tôi
được hạnh phúc, mong sao cho tôi được an bình, mong sao cho tôi thoát khỏi
khổ đau. Hãy lặp đi lặp lại nhiều lần những câu này hoặc là những nhóm từ
tương tợ. Ta làm điều này không như là một sự khẳng định quả quyết, mà như
là một sự biểu lộ tác ý quan tâm chăm sóc. Khi bạn lặp lại những từ ngữ này,
hãy chú tâm vào ý định tốt lành này; tác ý này dần dà nẩy nở thành ra một
tâm lực hùng mạnh trong đời sống của bạn.
Mặc dù sự thực tập chẳng chút phức tạp, nó có
thể cực kỳ khó khăn. Khi bạn chuyển sự chú ý của mình hướng vào bên trong và
gửi những niềm ước ao thương yêu cho chính mình, bạn có thể nhìn thấy một số
lượng đáng kể về sự tự phán đoán lấy mình hoặc là những cảm nhận không xứng
đáng của tự thân. Trong những lần như vậy, hãy tiếp tục một cách nhẹ nhàng
từ ái như là nếu bạn đang ôm ấp một đứa bé. Một dòng thơ từ bài thơ của
giới võ sĩ Nhật thời xưa đã diễn đạt khá hay phần thực tập này: “Tôi làm cho
tâm tôi trở thành bạn tôi.”
Thực Tập Tâm Từ Đối Với Ân Nhân
Sau khi làm cho vững mạnh các cảm xúc tâm từ
dành cho chính mình, ta gửi những niềm ao ước giống như vậy tới một người ân
đã trợ giúp ta trong cuộc sống bằng phương cách nào đó. Đây có thể là cha,
mẹ, thầy, cô hay ngay cả một người nào đó mà ta không quen biết, tuy vậy,
cuộc đời của người này đã có một ảnh hưởng tích cực đối với đời sống của ta.
Một người có khó khăn tiếp xúc với tâm từ đã nói rằng, chị ta mở rộng tâm từ
dễ dàng nhất khi nhớ nghĩ về con chó của chị – một loài động vật luôn ban
cho chị một thứ tình thương mà không hề đặt vấn đề này nọ hoặc là thường hay
hỏi lại gì cả. Những ân nhân có thể ở trong nhiều hình thái khác nhau.
Trong phần thực tập này, hãy giữ hình ảnh
hoặc là cảm xúc về người đó trong tâm bạn, giống như là nếu bạn đang nói
chuyện trực tiếp với họ, và kế tiếp hãy hướng tác ý tâm từ về người này:
Cầu mong cho được hạnh phúc, an bình, không còn khổ đau. Giai
đoạn này thường dễ hơn là hướng tâm từ tới chính mình bởi vì ta thường có
sẵn những tình cảm quan tâm nồng thắm dành cho những người đã giúp đỡ ta.
Thực Tập Tâm Từ Hướng Về Mọi
Người
Rồi thì ta tiếp tục thực tập hướng tới những
hạng người khác. Ta gửi niềm chúc lành quý mến tới những người thân thiết;
sau đó tới những người bình thường mà ta không có cảm xúc mạnh mẽ bằng cách
này hay cách nọ; và kế tiếp tới “những người thù nghịch” hoặc là những người
khó chịu. Cuối cùng, ta gửi tâm từ tới mọi người ở khắp mọi nơi, và lặp lại,
Mong sao cho mọi người được hạnh phúc, mong sao cho mọi người được bình
an, mong sao cho mọi người được thoát khổ.
Thật là quan trọng để thực tập theo nhịp tiến
của riêng mình. Có lẽ, một vài hạng người sẽ dễ dàng cho sự thực tập của bạn
hơn so với những hạng người khác. Bất cứ khi nào bạn cảm thấy mình có khả
năng phát khởi những cảm xúc quan tâm thương yêu chân thật đối với một người,
thì bạn hãy tiếp tục thực tập như vậy cho người kế tới.
Phần này có thể được thực tập một cách sâu
sắc trong khung cảnh thanh lặng của một khóa thiền, trong công phu hành trì
mỗi ngày ở nhà, hoặc đương lúc đi ngoài đường phố hay lái xe đi làm. Trong
mọi trường hợp, đều bắt đầu có sự thay đổi trong mối tương giao giữa ta với
người khác ở khắp mọi nơi.
Như là một cuộc thử nghiệm, lần tới khi bạn
đi công chuyện lặt vặt, bị kẹt xe, hay đứng xếp hàng ở siêu thị, thay vì bận
tậm lo nghĩ mình sẽ đi đâu hoặc cần làm gì, hãy trải tâm từ đến mọi người
quanh đó trong thời gian này. Thường thường, có một sự biến chuyển tức thì
và rất rõ rệt khi ta cảm thấy được nối kết chặt chẽ nhiều hơn với những
người khác cũng như khi ta thường trực có mặt trong giây phút hiện tại.
Khi tôi mới bắt đầu thực tập tâm từ, tôi có
được một kinh nghiệm mà nó phơi bày tâm tôi thật nhiều, cũng như cách thức
tôi liên hệ với những người khác. Tôi thực tập mở rộng tâm từ hướng tới một
người bình thường – dù rằng tôi không mấy chắc “một người bình thường” nghĩa
là gì. Thầy tôi, Anagarika Munindra (1914-2003), chỉ ngắn gọn bảo, hãy chọn
một người gần bên mà mình không có nhiều cảm xúc bằng cách này hay cách kia.
Khi tôi còn ở Ấn Độ, và có một người làm vườn
lớn tuổi trong một tu viện nho nhỏ nơi tôi trú ngụ. Tôi thấy ông mỗi ngày,
tuy vậy, tôi chưa hề thật sự có cảm nghĩ nào về ông cả. Ông chỉ là người mà
tôi nhận biết khi đi ngang qua. Thật là sửng sốt khi nhận ra rằng, có bao
nhiêu người như vậy ở xung quanh mình, những người mà tôi đã có những cảm
thọ hoàn toàn trung tính. Tự chính điều đó đã là một sự khám phá có tính
cách soi sáng rồi.
Vì vậy mà mỗi ngày trong nhiều tuần lễ, tôi
đã bắt đầu hình dung ra ông già làm vườn này trong thời khóa thiền tập của
tôi, lặp lại những cụm từ như là, “Cầu mong cho ông được hạnh phúc, cầu mong
cho ông được an nhiên, cầu mong cho ông được thanh thản.” Một thời gian sau,
tôi khởi sự cảm nhận được sự nồng ấm và quan tâm thật nhiều dành cho ông, và
mỗi lần chúng tôi đi ngang qua nhau, trái tim tôi mở ra ngay. Đây là một
bước ngoặt to lớn trong sự thực tập của tôi. Tôi hiểu ra rằng, tôi cảm nhận
về một người nào đó ra sao là tùy thuộc vào tôi, và những cảm thọ của tôi
không chủ yếu tùy thuộc vào người đó, vào cách hành xử của người đó, hay là
vào tình thế đó. Người làm vườn vẫn y nguyên như vậy. Tuy nhiên, do vì một
sự biến chuyển trong sự hiểu biết và thực tập của riêng tôi, trái tim tôi
bắt đầu tràn đầy cảm thọ từ ái và quan hoài chân thật.
Điều Gì Dẫn Đến Sự Thành Tựu
Lớn Của Trái Tim?
Có một bài học quan trọng ở đây về năng lực
bền bĩ của tâm từ. Do bởi tâm từ không tùy thuộc vào bất kỳ phẩm chất đặc
thù của người khác, loại tình thương này không chuyển đổi dễ dàng thành ra
ác ý, giận hờn, hay bực dọc như thứ tình yêu thông thường có sự ham muốn hay
dính mắc kèm theo. Tình thương vô điều kiện như vậy chỉ xuất phát từ tâm
lượng bao dung của trái tim. Dù rằng ta có lẽ nhận ra được tính chất thanh
tịnh và năng lực cảm xúc này, ta có lẽ e sợ hay nghĩ tưởng là loại tình
thương này vượt quá khả năng của mình. Tuy nhiên, tâm từ không là một năng
lực chỉ tìm thấy nơi đức
Đạt Lai Lạt Ma hay ở một vài siêu nhân,
thánh nhân nào đó. Câu hỏi được đặt ra cho chúng ta là, làm thế nào chúng
ta thực tập tâm từ? Tất cả chúng ta có thể thực tập tâm từ và học cách
thương yêu theo lối này. Cái gì làm cho tính chất hàm dung ôm trọn của tâm
từ có thể thực hiện được?
Cách đây vài năm, tạp chí Harvard Medical
Journal có đăng một bài báo về một bác sĩ Tây Tạng, tên là Tenzin Chodak, vị
này từng là y sĩ chăm sóc riêng cho Đức
Đạt Lai Lạt Ma. Vào năm 1959, bác sĩ Chodak
bị Trung Quốc tống giam. Suốt 17 năm đầu của khoảng thời gian 21 năm trong
tù, ông bị đánh đập và tra khảo hằng ngày cả cả về thể xác lẫn tâm hồn, và
mạng sống ông không ngớt bị đe dọa. Thật đỗi ngạc nhiên, ông thoát khỏi tình
trạng khủng khiếp này gần như là không có các dấu hiệu chấn động tâm thần
sau thời kỳ chấn thương gì cả.
Bài báo cho biết bác sĩ Chodak đã phơi bày
tinh túy tuệ giác mà ta cần hiểu như là 4 điều quán chiếu cốt yếu, mà
chính chúng chẳng những đã giúp ông sống sót–người ta sống sót trong nhiều
điều kiện khủng khiếp bằng nhiều cách–mà lại còn giúp ông thành tựu được
tính chất cao thượng vĩ đại của trái tim. Cô ký giả Claude Levenson đã mô
tả bác sĩ Chodak trong một bản tóm tắt tiểu sử về ông như sau đây: “Hình như
bạn chẳng hề chú ý tới bác sĩ Chodak khi ông đi ngang qua cho tới lúc bạn
bắt gặp cái nhìn sâu thẳng của ông – một cái nhìn tràn đầy sự cảm nhận của
một người từng thấy biết quá nhiều mọi thứ, cái nhìn vượt xa hơn sự khổ đau
mà ông đã kinh nghiệm, vượt lên trên tội lỗi xấu xa và hành hạ ngược đãi mà
ông đã chứng kiến, tuy nhiên, biểu lộ được tâm bi mẫn vô biên dành cho những
con người đồng loại.”
Bốn Điều Quán Chiếu Trong Những
Giai Đoạn Đau Đớn Khốn Cùng
Thứ nhất, ta phải nỗ lực để nhìn thấy mỗi một
tình trạng trong một bối cảnh rộng lớn hơn. Giống như đức
Đạt Lai Lạt Ma–ngài thường nói về kẻ thù sẽ
chỉ dạy cho mình đức tính kiên nhẫn ra sao – bác sĩ Chodak xem kẻ thù như là
vị thầy tâm linh của mình và dẫn dắt ông tới chỗ tột cùng của tâm bi mẫn và
sáng suốt. Vì vậy cho nên, ông cảm thấy ngay cả trong những tình huống kinh
khiếp và tồi tệ nhất, phẩm chất cao thượng của trái tim có thể được thành
tựu tới mức toàn vẹn. Lẽ đương nhiên, nghĩ ngợi về nó thì dễ; điều trở ngại
thách thức chính là ta phải ghi nhớ và ứng dụng sự thấy biết này trong những
giai đoạn khó khăn.
Thứ nhì, ta phải nhìn thấy kẻ thù hay người
khó tính trong cuộc sống của ta cũng là những người giống như chính ta vậy.
Bác sĩ Chodak không bao giờ quên cái tình cảnh như nhau của thân phận con
người. “Luật nghiệp báo” có nghĩa là mọi hành động của ta đều có hậu quả:
những hành động trỗ quả căn cứ trên những tác ý đằng sau chúng. Người nào
hành động ác nghiệt đối với ta thì thực sự cũng đang sống trong những nghịch
cảnh, giống y như là ta vậy đó, vì họ đang tạo nghiệp bất thiện khiến họ sẽ
phải chịu khổ trong tương lai.
Tuy thế, ta không nên nghĩ về nghiệp như là
“họ sẽ nhận lãnh hình phạt” như là một loại phương tiện trả thù trong vũ trụ.
Mà đúng ra là nhìn thấy được thân phận con người như nhau có thể giúp ta trở
thành suối nguồn bi mẫn. Đức
Đạt Lai Lạt Ma nói, “Những
kẻ thù của bạn có thể bất đồng ý kiến với bạn, có thể hãm hại bạn, nhưng
trong một khía cạnh khác, họ vẫn là con người giống như bạn. Họ cũng có
quyền không phải chịu khổ đau và tìm thấy hạnh phúc. Nếu tâm thấu cảm của
bạn có thể trải rộng ra như vậy, thì đó chính là tâm bi chân chánh, không
thiên vị”. Hiểu biết nghiệp báo – mà ta sẽ gặt lấy quả báo
từ những hành động của mình – như là một phương tiện vun bồi tâm bi thì đó
mới chính là tuệ giác mà ta có thể bây giờ mang vào đời sống mình. Hết thảy
chúng ta cùng ở trong tình trạng như nhau là bị chi phối bởi quy luật nghiệp
báo nhân quả.
Thứ ba, ta phải xả bỏ lòng kiêu hãnh và cảm
giác quan trọng hóa bản thân mình. Những thái độ này, mà chúng rất dễ khởi
lên trong những thời gian xung đột, sẽ trở thành những hạt giống chồng chất
thêm khó khăn trở ngại. Điều này không có nghĩa là ta nên chấp nhận một lập
trường khiêm cung giả tạo hay là xả thân quên mình. Đúng hơn là, ta buông bỏ
khuynh hướng phóng đại thêu dệt mình, hoặc giữa cá nhân với nhau hoặc trong
vòng khuôn khổ tâm lý thầm kín trong ta. Một câu truyện cổ tích Trung Hoa
đã sử dụng thiên nhiên để minh họa tính chất bảo hộ vĩ đại của đức tính
khiêm cung thật sự: Nhà hiền triết Trang Tử đang tản bộ với một đệ tử trên
đỉnh đồi. Họ thấy một cây cổ thụ cong vẹo mà không có nhành nào suôn
thẳng cả. Người đệ tử nói cây này vô ích, nó không được dùng vào việc gì cả,
và Trang Tử đáp lại, “Đó là lý do tại sao cây này là cổ thụ. Dường
như ai cũng biết ‘sự lợi ích của nó thật là có lợi biết bao’. Nhưng mà hình
như không ai biết ‘sự vô ích của nó thật là hữu ích biết bao.’”
Bác sĩ Chodak thực tình cho rằng ông ta sống
sót được là nhờ khả năng buông bỏ sự quan trọng hóa bản thân mình và tự cho
mình là đúng. Sự quán chiếu này mang lại một bài học thật đáng giá trên con
đường phát triển tâm linh, một bài học mà nó sẽ trở tới trở lui với tất cả
chúng ta. Thứ tư, sự quán chiếu, mà nó đã nuôi dưỡng sự thành tựu lớn không
ngờ được của trái tim của bác sĩ Chodak, và là điều mà ta phải thực sự hiểu
biết lấy qua chính bản thân mình, đó là lấy oán trả oán thì oán thù không
bao giờ chấm dứt được; oán thù chỉ được kết thúc khi được đáp lại bằng tình
thương. Nhiều truyền thống tâm linh nhìn nhận lẽ thật này. Trong những tình
huống mâu thuẫn, tâm từ và tâm bi sẽ nẩy nở khi ta hiểu rõ chúng chính là
động lực lợi lạc nhất cho phương lối ứng xử có hiệu quả.
Có thể nào ta duy trì được những cái nhìn này
ngay cả trong những hoàn cảnh ít nguy ngập gay go? Khi người nào đó giận dữ
đối với bạn, hay là bạn ở trong vài tình thế khó khăn, hãy nhớ rằng chính sự
khó khăn trắc trở này làm cho lòng nhẫn nhục và tình thương trong bạn vững
mạnh thêm. Trong những hoàn cảnh này, ta có thể tự thẩm vấn lấy mình, là ta
sẽ thành tựu tính chất cao thượng vĩ đại của trái tim mình ra sao, hãy nhắc
nhở mình rằng mọi người cùng chung chia sẻ mối nối kết nhân loại, hãy buông
bỏ niềm kiêu hãnh, và hiểu rằng, cuối cùng rồi nỗi oán hận và thù hằn sẽ chỉ
ngừng dứt bằng tình thương mà thôi.
TÂM DIỆU PHÚ
Trích dịch từ quyển “A Heart Full of Peace”
(Trái Tim An Lạc) của Thiền sư Joseph Goldstein.

|