TƯ LƯƠNG
TOẠI KHANH
Đêm, online thấy cái email của ông Bình Anson với một địa
chỉ link để vào xem hình ảnh các ngôi chùa mà ông đã có dịp thăm viếng. Do
chút tình cảm riêng tư, tôi chọn ngay các chùa trong nước để xem trước.
Thật lạ, tôi là người Việt và
theo Phật giáo, nhưng cứ thấy khó chịu khi nhìn vào chánh điện của hầu hết
chùa chiền trong nước. Cái nhức nhối là vấn đề không phải ở chỗ giàu nghèo,
lớn nhỏ, mà là cái gì đó tạm thời rất khó nói, rất trừu tượng. Tôi lại theo
thói quen mà nhắm mắt một lát để ngẫm nghĩ.
Trong cái tĩnh lặng mơ hồ của đêm tối, tôi bỗng nghe rõ mồn
một câu nói năm nào của sư phụ. Hoa là để tô điểm Phật, đừng bao giờ lấy
Phật để tô điểm hoa. Chính phụ phải phân minh. Ô hay, thì ra là vậy. Tôi
mở mắt nhìn lại bệ thờ ở các chùa Việt Nam. Trời ạ, hoa trái hương đăng chất
ngất trùng trùng, ngó sơ rồi lại nhớ vu vơ một lời hát: Một màu xanh xanh
thêm chút vàng vàng, một màu nâu nâu thêm một chút tím tím…. Hình như là
vậy. Giữa muôn trùng lễ phẩm là rất nhiều pho tượng chen nhau mà ngồi. Người
sơ cơ nhìn vào khó mà biết được cái gì là chính phụ trên một bệ thờ đầy ắp
kiểu đó. Đã vậy, tượng Phật trong các chùa Việt Nam hầu hết theo kiểu Tàu
hay Nhật là hở ngực bày chữ Vạn và y hạ mặc cao gần ngực với giải lụa làm
dây cột lòng thòng, lắm lúc trên mình tượng còn đầy vòng vàng châu ngọc. Đó
là chưa kể trường hợp có nơi còn đặt pho Quán Âm Tống Tử là tượng một mỹ
nhân kiều diễm bồng một hài đồng bụ bẫm đứng cạnh tượng Bổn Sư. Người ta có
thể giải thích những hình tượng đó là biểu tượng cho cái gì đó cao siêu mầu
nhiệm nhưng rõ ràng tác hại đầu tiên phải có của hình ảnh đó là làm hỏng
hình ảnh đức Phật trong lòng không ít người sơ cơ. Trong thực tế, ngoại
trừ Thanh Hải Vô Thượng Sư, không một tăng ni nào trên toàn cầu lại có lối
trang phục như những pho tượng mà người Việt ta vẫn thờ. Một người ăn
mặc lượm thượm và bất hợp lý như vậy rất khó di chuyển, trừ phi có phép mầu
để phi hành trong gió. Và một vị đạo sư cầu kỳ như vậy hình như khó lòng mà
tuyên thuyết những đức tánh xả ly, thiểu dục, giản dị.
Chuyện tôi muốn thưa ở đây tuyệt không phải hình thức ảnh
tượng hay nghi lễ thờ cúng mà là cái nền tảng văn hoá nào đã nuôi dưỡng
những vẻ ngoài ấy. Xin ngẫm lại mà xem, người Tây Phương sau khi học đạo ở Á
Châu về, họ đã bày trí chốn thờ phượng ra sao. Họ thực tế, ngại dư thừa, thế
là chỉ thờ những gì mà họ có thể lạy. Người Phương Đông ta hầu hết chủ về
cảm tính, không phân biệt nhiều về cái mình cần và điều mình thích. Đôi lúc
cũng tự biết đó không phải là cái cần, cũng không phải cái mình thích nhưng
lại xu hướng thiên hạ chỉ vì sợ mang tiếng là thiếu. Từ đó chấp nhận cả
những cái dư, bày lên bàn thờ rất nhiều thứ mình không thể lạy.
Ta chưng hoa vì muốn làm đẹp một nơi chốn, nhưng thiếu mỹ
quan thì chỉ khiến ở đó thêm khó nhìn. Tôi không có chùa chiền, nhà đất,
nhưng vẫn cứ thấy khó chịu với những khuôn sân chất đầy những chậu hoa kiểng
vì những nơi đó cơ hồ chỉ thấy chậu mà chẳng thấy hoa. Đời sống vốn đã lê
thê lướt thướt, thêm càng nhiều cái dư thừa chỉ khiến mất thời gian, choán
không gian.
Thế nhưng không phải người Á Châu nào cũng thế. Nhiều thiền
viện, chùa chiền của Thái Lan, Đài Loan, Nhật Bản nhìn đẹp như những khu
Resort. Lý do là có người đã biết nhìn ra thiên hạ để mà sửa mình, nói là
bắt chước cũng được, miễn sao biết được gì là thiếu và thừa. Không có được
khả năng tiếp thu này, thiên hạ dễ mắc hội chứng ao tù, một đời duy ngã độc
tôn, rồi thì trên nền tảng thiếu máu đó, cách ta tìm đến Phật Pháp cũng có
vấn đề.
Nếu ta tin Phật là Bậc Nhất Thiết Trí thì cũng phải thấy
đạo Ngài như biển cả. Để hiểu được biển, phải có được những phương tiện và
hành trang đi biển. Lời Phật mênh mông như sa mạc, muốn tìm vào phải có
những chuẩn bị tương thích. Tôi gọi đó là tư lương, tức những gì cần thiết
cho một hành trình trên đường. Tùy thuộc sở tánh cá nhân mà mỗi người mang
theo mình những tư lương gì, hoặc thiếu hoặc thừa, hay Cần và Đủ. Mang tâm
tình một người mê cổ nhạc, ta thờ Phật theo phong cách cải lương. Mê đắm
những thứ Hip-hop, Hi-tech thì ta thờ Phật qua những công nghệ hiện đại. Gì
cũng là tư lương, nhưng liệu những gì ta mang theo trên đường tìm đạo và
hành đạo có giúp được gì cho ta hay chỉ là lợi bất cập hại. Bối cảnh sinh
trưởng, môi trường sinh hoạt, những thầy bạn kề cận, những gì ta thường nghe
thấy hay đọc qua, tất thảy đều góp phần quan trọng vào cảm thức của chúng ta.
Hành trang càng nghèo nàn, khả năng chắp cánh càng hạn chế, nhiều khi còn là
sự tật nguyền. Đành rằng chim cá đôi miền cách biệt, mỗi người có riêng một
căn tánh, nhưng trộm nghĩ, nói theo nghĩa bóng thì người Tây Tạng có dịp
cũng nên biết khái lược về sông nước và người Việt Nam có dịp cũng nên tìm
hiểu về những ngọn tuyết sơn để trong suy tư không mắc lỗi vì một đời dậm
chân trên những lối mòn.
Nếu để ý một chút ta sẽ thấy ngay rằng tín ngưỡng và văn
hoá ở mỗi miền đất thường mang theo dấu ấn của tâm tình xã hội bản địa. Từ
đó, nếu thiếu sự tự cố, những gì tốt đẹp nhất sẽ mất dần tính tinh khôi sau
những lần sang tay trên những bến bờ du nhập. Trên đời có những thứ càng
phát triển và đổi khác sẽ càng tốt hơn, nhưng có những thứ hình như càng mất
bản sắc nguyên thủy thì càng tệ… chẳng hạn vàng ròng đem pha trộn mãi sẽ rẻ
tiền hơn, nước càng qua nhiều pha trộn cũng sẽ khó xài hơn. Từ đó mà nói,
chuyện tôi muốn thưa ở đây trước sau chỉ là một gợi ý: Khả năng tiếp thu
tuyệt đối quan trọng và nó tùy thuộc vào vốn liếng được trang bị trước đó.
Thiếu vốn liếng, người ta dễ mắc phải thiên kiến phiến diện rồi thì tự biến
sở thích và sở kiến bản thân thành thước đo chân lý, thích cái gì thì cái đó
là đệ nhất. Nguy !
Ta chỉ có thể bước đi thoải mái với đôi giày vừa vặn với
chân mình, nhưng còn một chuyện quan trọng khác là có thể mang đôi giày đó
đi trên mọi nẻo đường. Lúc này vấn đề không còn thu hẹp trong đôi giày vừa
chân mình nữa. Mong thay!
TOẠI KHANH

|