NHỮNG BUỔI BÌNH MINH CHIM HÓT

Tâm Lương - Châu Minh Anh

 

Đang làm việc tại hãng, chị Ánh nhận được điện thoại của chồng, bảo phải về gấp vì hệ thống báo động chống trộm ở nhà hú và cảnh sát đã tới tận nhà. Chị hớt ha hớt hải đi xin phép, xong vội vã ra xe phóng về ngay. Trên đường đi, chị cầu mong sao, đó không phải vì bọn gian tới dọn nhà. Lòng hồi hộp và tâm trí căng thẳng làm chị mất bình tĩnh.Về đến nơi, chị thấy xe cảnh sát quay đèn đứng trước sân. Chị xuống xe, không kịp chào hỏi mấy người cảnh sát, hấp tấp tới mở cửa ga-ra. Lúc ấy hệ thống báo động vẫn còn hú. Chị dè dặt không dám vào vì thấy cửa lớn từ ga-ra vô nhà mở toang. Cảnh sát đã đến quan sát trước, biết là không có điều gì nguy hiểm, ra hiệu bảo chị vào. Chị Ánh hồi hộp đi quan sát khắp nơi. Thật hú vía, mọi đồ đạc còn y nguyên. Chị thở đánh phào sung sướng. Lúc này chị mới đoán, có lẽ con gái chị ra khỏi nhà sau cùng, gài hệ thống báo động mà quên gài chốt cửa. Do đó, có thể, vì hơi gió từ lỗ thông ra của hệ thống điều hòa làm cho cửa mở nên bộ phận báo động mới cứ hú hoài. Chị lầm bầm trách con gái sơ ý để chị lo muốn đứng tim.

Về nhà sớm mấy tiếng đồng hồ, chị muốn tìm một vài việc vặt trong nhà làm cho đỡ buồn. Sau khi lau chùi bếp núc xong, chị lên phòng con gái dọn dẹp. Chị kéo màn cửa ra cho ánh sáng lùa vào và đưa mắt rảo quanh khắp các nhà phía trước. Chị nhớ từng chiếc xe của mỗi gia đình. Nếu có một chiếc xe lạ là chị biết ngay. Bỗng một chiếc xe màu cà phê sữa mới toanh đang chầm chậm chạy tới, dường như muốn tìm nhà ai. Chị đưa mắt nhìn theo. Cuối cùng chiếc xe quanh vào ngôi nhà đối diện, hơi xéo về phía bên phải nhà chị. Đó là nhà chị Minh, bạn học hồi thời trung học của chị ở Việt nam. Thật là một sự tình cờ lạ lùng: hai người gặp lại nhau sau hơn ba mươi lăm năm xa cách.

Nguyên cách đây gần một năm, chị Ánh sống trong ngôi nhà xây dựng đã lâu lắm, xa nơi này trên hai mươi dặm. Rồi một người bạn hàng xóm của chị đã mua một ngôi nhà mới xây cất, rất gần hãng làm để tiện việc đi lại. Ngày đãi tiệc về nhà mới, người bạn có mời vợ chồng chị Ánh đến dự. Vốn bản tính không muốn thua ai, hễ thấy ai có cái gì hơn mình là chị sinh lòng bực tức. Sau đó, bằng mọi giá, chị phải cố làm cho bằng hoặc hơn mới thôi. Vì vậy, chị đã đến khu nhà mới này mua một căn. Còn gia đình chị Minh cũng vừa dọn đến đây chưa được nửa năm, để được ở gần bên đứa con gái út vừa ra riêng, cho vui cảnh gia đình đoàn tụ. Hai bên gặp nhau rất vui mừng. Từ đó, họ thường xuyên qua lại nhà nhau, kể về chuyện mình sau những năm rời ghế trường trung học. Qua câu  chuyện, chị Ánh biết chị Minh đã đỗ đạt cao và tìm được người chồng danh giá. Tới tiểu bang này, chồng chị Minh, anh Bình, tiếp tục học lại và làm việc có vai vế trong một công ty nọ. Còn những đứa con của chị Minh cũng lấy sự học làm kế mưu sinh bền vững cho tương lai. So sánh với mình, chị Ánh thấy gia đình chị thua kém khá xa, từ chồng, bản thân mình và cả con cái nữa. Bên ngoài, chơi như có vẻ thân tình lắm nhưng trong lòng chị Ánh rất đố kỵ. Nói chung, chị đã đối xử với chị Minh theo cách bằng mặt mà không bằng lòng. Trái lại, chị Minh luôn xem chị như một người bạn thân của gia đình. Vì xa quê hương gặp được một người bạn cũ ở gần, đó là điều vô cùng quý đối với chị. Vì vậy, trong những bữa tiệc tại gia đình, lúc nào vợ chồng chị Ánh cũng có mặt. Vào những lúc này, anh Bình thường hay kể cho mọi người nghe về sự thủy chung của vợ anh trong những năm anh ở tù. Không biết có ai nói cho anh Bình về quá khứ của chị Ánh hay không, nhưng khi nghe anh ấy nói tới sự thủy chung của chị Minh, chị Ánh liếc nhìn chồng, rồi tức ứa lên tới cổ, dường như đang bị châm chọc vậy.

Thật ra, chị có một tì vết, không biết có đúng thật hay không, chỉ riêng có chị biết.

Nguyên sau năm 1975, chị Ánh được bổ dạy ở một trường tiểu học trong thị xã quê chồng. Thời gian này cũng có nhiều giáo viên mới về trường. Trong số ấy có một giáo viên nam tên Tịnh, dáng dấp rất nghệ sĩ, mái tóc gợn sóng bồng bềnh, thích đàn hát và ngâm thơ rất hay. Từ đó, cứ mỗi khi Tết và hè đến, nhà trường có tổ chức văn nghệ, Tịnh đều nhận lãnh vai trò tập dượt. Chị Ánh cũng có máu văn nghệ, rất thích hát, nên hai người thường sát cánh bên nhau trong những dịp này. Thêm vào, lúc ấy, nhà trường có chỗ ở tập thể cho giáo viên ngay trong trường. Chị Ánh và anh Tịnh cùng ở trong khu tập thể đó. Thời gian này chồng chị Ánh đi ở tù. Ở nhà chị thường giao thiệp có vẻ thân tình với Tịnh nên có nhiều người dị nghị. Trong số bạn dạy chung trường, chỉ có chị Dung là người trực tính, thường xuyên khuyên chị Ánh chấm dứt ngay sự lãng mạn này, nếu không, về sau đổ bể, sẽ mất hạnh phúc gia đình. Chị Ánh không nghe lời. Thế rồi, một ngày nọ, một giáo viên trong khu tập thể, có việc đi về khuya, đã bắt gặp Tịnh đi từ hướng phòng chị Ánh về phòng mình. Dù rằng không chắc Tịnh đã từ phòng chị Ánh ra, người giáo viên ấy cũng đã phao tin với một sự quả quyết.

Trước kia, chị Ánh đã bán tín bán nghi là chị Dung đã kể lại cho vợ chồng anh Bình nghe về chuyện ấy. Và gần đây, mặc dù đã nhiều lần, chị Ánh để ý không thấy nơi chị Dung có tính ngồi lê đôi mách, nói xấu người nọ người kia, vậy mà không hiểu sao, chị Ánh vẫn cứ tin anh Bình đã biết chuyện nên thường hay ấm ức trong lòng.

Hôm nay, chị Ánh thấy có một người đàn ông lạ xuống xe vào nhà chị Minh trong khi chồng chị về Việt nam mới có vài tuần. Chị Ánh dán mắt theo dõi. Chỉ chưa đầy ba mươi giây, sau khi người đàn ông bấm chuông, cửa lớn bật mở. Chị Minh bước ra, nói một câu gì đó và ôm chầm lấy người đàn ông, lộ vẻ mặt đầy vui mừng. Rồi chị dắt tay người ấy đưa vào nhà. Thật là một điều lạ lùng quá sức tưởng tượng vừa xảy ra trước mắt chị Ánh. Chị thấy lòng vô cùng sung sướng vì thần tượng của một số người, trong đó có chồng chị Minh, sắp bị sụp đổ. Và bao nhiêu tỵ hiềm, ganh ghét trước đây, giờ chị muốn xổ ra hết. Chị vội xuống nhà dưới, lấy điện thoại rồi bấm số, gọi ngay cho người bạn tâm đầu ý hợp nhất, nhưng rất tiếc người ấy không có ở nhà. Chị bấm sang số khác:

 - A lô, chị Dung đó hả ? Chị biết gì không ? Chuyện động trời. Chuyện động trời.

- Có gì vậy?

- Con mẹ Minh lấy trai, đem trai về nhà bà ơi! Chồng nó mới về Việt nam được hai tuần. Mẹ chồng nó chết. Tui hỏi tại sao nó không về, nó nói, nó có việc, cần phải ở lại. Việc cần gì? Cần hẹn với bồ nhí! Chồng đi vắng. Cơ hội ngoại tình tốt mà!

Trong khi chị Ánh nói, nói thao thao bất tuyệt, chị Dung thoáng có ý nghĩ: tại sao bữa nay chị Ánh đổi cách gọi chị Minh là “con mẹ”, là “nó”, khác với mọi khi, chị Ánh gọi là “bà Minh”, là “bả”. Chị Dung đâu có biết trong lòng chị Ánh bao lâu nay âm ỉ một nỗi cay cú sâu xa và hôm nay được dịp bộc phát. Chính cách đổi lối xưng gọi và ngữ điệu đầy vẻ căm tức làm chị Dung nghi ngờ tính trung thực của câu chuyện.

- Bà nói sao chớ bà Minh đời nào làm chuyện như vậy. Bả đàng hoàng có tiếng tận hồi nào giờ mà.

- Đàng hoàng cái con khỉ gì. Đạo đức giả. Bà không tới đây mà coi. Xe thằng cha đó còn đậu trước mặt nhà nó kia kìa.

          Nói rồi chị Ánh sợ người đàn ông kia đi, lỡ chị Dung tới mà không thấy thì mất uy tín và mất lòng. Do đó, chị phải lên gác vào phòng con gái, ngồi  nhìn ra cửa sổ canh chừng. Nếu người đàn ông ấy có vội vã ra về, chị sẽ gọi báo cho chị Dung đừng tới. Trong lúc này, chị không muốn ngồi không. Chị lại bấm điện thoại, gọi một số bạn bè khác và có quen với chị Minh để loan truyền tin này. Trong số ấy có người tin và có người không tin. Người tin thì muốn làm quân sư cho chị Ánh, chỉ cho chị một vài cách thu góp bằng chứng chính xác. Người này bày chị Ánh chụp hình. Kẻ kia xúi chị Ánh dùng máy quay phim thu hết những hình ảnh của chị Minh và gã đàn ông kia. Chị quá đỗi sung sướng vì được những người bạn tử tế chỉ cho những chiêu tuyệt vời. Hiện tại nhà chị chỉ có máy chụp hình. Chị vội vã đi lấy rồi trở lên tìm chỗ đứng cho thích hợp và đưa “dum” thật dài để lấy hình cho lớn.

          Thời gian trôi qua thật nhanh. Chị Ánh loay hoay hết việc nọ tới việc kia nên không biết giờ giấc là gì. Lúc này chị cảm thấy đói bụng và nhìn đồng hồ đã hơn bảy giờ chiều. Nhờ gặp lúc mùa hè nên mặt trời lặn rất trễ. Ít ra cũng còn khoảng một tiếng rưỡi nữa vẫn có đủ ánh sáng để chụp hình. Chị Ánh cố kiên nhẫn chờ đợi vì nghĩ thế nào họ cũng đi ăn thứ gì sau những giây phút tạo nên sự mệt nhọc. Nghĩ vậy, chị chạy xuống bếp, vội vã xúc một tô cơm và gắp một miếng cá kho còn lại của ngày hôm trước, đem lên ăn, chớ từ lúc chiều giờ, chị có ngơi việc đâu mà nấu nướng. Ngồi, tay xúc cơm nhưng mắt chị vẫn không rời cửa nhà chị Minh ở bên kia đường. Chị ngồi chờ thật lâu mà chẳng thấy động tĩnh gì. Giờ chị mới thấy thật là một cực hình khi phải ngồi canh chừng, rình rập cố bắt cho được kẻ làm điều sai trái. Bỗng trong trí chị thoáng qua câu của ông bà ta thường nói: “Nai giạt móng, chó cũng le lưỡi”. Thật nếu không có những lời hối thúc của những người bạn chí cốt, nói chuyện với chị cách đây mấy giờ, bảo là phải có một tấm hình để làm bằng chứng thì chắc chị đã thối chí bỏ cuộc rồi. Thấy cách này vừa tốn công, nhọc sức canh chừng, vừa không chắc có tấm hình chụp rõ hoặc khỏi hư, chị nghĩ chỉ có cách dùng máy quay hình là vừa tiện lợi, khỏi vất vả nhọc công, lại vừa có hình bảo đảm. Nhưng chẳng lẽ chỉ cần quay có một lần mà phải mua một máy quay phim, giá rẻ cũng ba, bốn trăm đô la. Làm vậy thật quá lãng phí. Hơn nữa, hiện giờ, chị đang cần dành dụm tiền để mua cho được chiếc xe Honda Accord đời mới, chứ “con mẹ Kính nó có mà mình không có, nó sẽ khinh”. Chị thầm nghĩ thế. Đang thấy một trở ngại lớn hiện ra trước mắt, chị đâm thất vọng. Nhưng bỗng chị thoáng nhớ ra, năm ngoái, con gái chị có mua một đầu máy video, đem về xem được mấy ngày, nó không thích và đem trả lại. Nó nói trong hoá đơn có ghi là có thể trả lại trong vòng ba mươi ngày. Chị vui mừng thở phào.

          Chị Ánh đang miên man trong niềm vui sướng thì cánh cửa nhà chị Minh xịch mở. Chị Minh ra trước, trong bộ đầm xòe màu sáng rất tươi mát, rồi tới người đàn ông chậm rãi bước theo. Anh ăn mặc không chải chuốt nhưng trông rất lịch sự, với cặp mắt kiếng gọng đen trên khuôn mặt đầy đặn, nước da trắng hồng hào. Nhìn qua dáng dấp có vẻ thư thả, đạo mạo như kẻ có quyền có chức. Chị Ánh không bỏ lỡ một giây phút nào, ném vội chén cơm lên giường con gái, rồi vớ lấy máy hình bấm lia, bấm lịa cho đến khi cả hai người đều vào hết trong xe. Chiếc xe đời mới hiệu Pontiac từ từ lui ra rồi tiến thẳng tới đường lớn. Chị Ánh khoan khoái, hỉ hả trong sự thành công. Nhưng rồi chị Ánh nghĩ tới con, lại thấy hơi hối hận vì hồi chiều chị có ý trách con gái sao vô ý đi không  đóng cửa để hệ thống báo động hú, làm chị lo lắng và để mất mấy giờ làm việc uổng phí. Giờ thì chị thầm cám ơn con vì nhờ nó mà chị khám phá ra một điều rất đắc ý. Thật là cơ hội ngàn năm một thuở. Chị cảm thấy sung sướng vô cùng vì nghĩ ngày mai vào hãng, chị sẽ kể lại câu chuyện này cho mọi người nghe. Nếu ai tỏ ý không tin, chị sẽ trưng bằng chứng ra liền. Nghĩ vậy, chị Ánh vội đi thay quần áo và trang điểm qua loa, rồi chạy ra tiệm hình rửa lấy liền. Vì nếu chậm trễ sẽ không kịp giờ, tiệm đóng cửa mất. Hơn nữa, chị muốn việc này phải hoàn tất thật nhanh để chị có thời giờ đi tìm hiểu xem hai người ấy đi ăn ở đâu, làm gì để chị có đủ bằng cớ chứng minh.

Lấy được hình, chị Ánh lướt xem qua thật nhanh. Chị không hài lòng vì đã không chụp được bức hình nào thật rõ hai người đứng gần bên nhau. Chị thấy một điểm lạ là nguời đàn ông đã không tỏ lộ nhiều âu yếm với chị Minh. Đến việc lên xe, chị Minh cũng phải tự mở cửa bước lên. Theo chỗ chị Ánh biết, những tay bồ nhí  khi “bắt” được vợ người thường làm nhiều cử chỉ rất nịnh đầm. Nhưng rồi chính chị lại phủ nhận ý nghĩ của mình: “có tay rất nịnh đầm, có tay nó thấy dễ dàng xâm chiếm được, nó coi rất xoàng”. Chị Ánh cho rằng chị Minh nằm trong trường hợp sau này.

Đầu óc chị quay cuồng với biết bao ý nghĩ. Chị vội vã ra xe để thực hiện điểm chính chị muốn làm. Chị nhẩm tính xem trong thành phố có mấy nhà hàng lớn. Chị đoán họ sẽ đến một trong những nơi này vì đồ ăn thường rất ngon. Và rồi chị lái xe tới tiệm ăn được coi là ngon nhất trước. Chị đảo một vòng quanh bãi đậu xe để tìm chiếc xe màu cà phê sữa.

Chị đi từ nhà hàng này tới nhà hàng kia đều chẳng thấy bóng dáng chiếc xe muốn tìm.Chị đâm nản lòng, toan quay về, nhưng thấy chợ ở gần đó, tiện đường chị lái xe vào mua một ít thức ăn cho ngày mai. Bỗng chị thấy một chiếc xe màu cà phê sữa đậu lù lù trước cửa quán phở làm chị giật mình. Chị cố giữ bình tĩnh, chạy chậm lại nhìn kỹ: đúng rồi, chiếc xe Pontiac mang biển số xe thuê, đúng y như số chị đã ghi trong giấy mang theo. Tim chị đập mạnh và càng đập mạnh hơn khi mắt chị liếc nhìn vào quán phở, thấy ngay chị Minh và người đàn ông ngồi đối diện nhau tại bàn sát tường kính. Trước mặt anh là một tô xe lửa to bự chảng, còn trước mặt chị Minh là một tô loại nhỏ nhất của tiệm. Chị Ánh định đậu xe vào một chỗ trống gần đó để ngồi quan sát cho dễ, nhưng vừa lúc ấy, cả hai người cùng đứng dậy rời khỏi bàn. Chị Ánh buộc phải lui xe quay về nhà. Đi đường chị hối tiếc đã không tìm được họ sớm để xem cảnh tình tự của hai người như thế nào.

Đêm đó, chị Ánh không tài nào chợp mắt được. Chị nằm trằn trọc suy nghĩ đủ thứ. Điều chị nghĩ đến nhiều nhất là làm sao trong những ngày sắp đến, quay cho được hình hai người đứng bên nhau âu yếm chuyện trò. Rồi anh Bình, chồng chị Minh, sẽ xấu hổ biết bao khi chị Ánh nói toạc hết sự thật và trưng bằng chứng những điều chị nói. Chị Ánh cứ miên man mãi với những tưởng tượng như vậy. Cuối cùng chị cũng ngủ được nhưng khi chuông đồng hồ báo thức reo, chị phải khó khăn lắm mới trở mình dậy được.

Hôm ấy vào hãng, mọi việc xảy ra hoàn toàn không như chị nghĩ. Nhiều người đã biết tính tình của chị. Họ tỏ ý không tin. Nhưng sau khi xem một số tấm hình chị Ánh chụp được, một số ít đã tin, một số nửa tin nửa ngờ. Vậy là nguồn tin chồng chị Minh về Việt nam, ở nhà chị Minh dẫn trai vào nhà, cứ một người trong hãng biết thì có năm, bảy người ngoài hãng biết. Người phao tin ban đầu có kẻ dè dặt, thêm vào cuối câu chuyện là điều này không chắc lắm. Nhưng qua người sau, người sau nữa, câu thêm kia bị bỏ mất. Vậy là nguồn tin từ chỗ không chắc đã trở thành tin có thật. Bao nhiêu lâu nay, có biết bao người bị những tin đồn xấu rất là oan ức, loan đi xa trong những trường hợp như thế.

Sáng mai hôm ấy, chị Ánh làm việc trong tâm trạng bồn chồn. Chị chỉ mong chóng tới giờ giải lao để có thể dùng điện thoại dành cho công nhân, gọi về một vài người bạn của chị. Khi đến giờ, chị phóng ngay đến chỗ để điện thoại và giữ suốt cho đến hết giờ nghỉ. Bao người đứng chờ, nhìn chị với đôi mắt bốc lửa, đầy tức tối. Chị biết nhưng cứ phớt tỉnh. Lúc xong chị Ánh mắc ống nghe vào ổ điện thoại gắn trên tường, nét mặt rạng rỡ, trông có vẻ hả hê lắm. Chị biết thêm một tin mới: chị Minh xin nghỉ làm hai ngày thứ năm và thứ sáu. Vậy là chiều nay, chắc chắn, thế nào gã đàn ông kia cũng đến nhà chị Minh. Chị đoán vậy nên đã lo chuẩn bị rất sít sao. Chị đã gọi cho con gái, bảo đi mua máy quay phim có chân và hỏi cách sử dụng thật kỹ, để chiều nay về chỉ lại cho chị.

Đến buổi chiều, mọi việc xảy ra đúng như chị Ánh dự tính. Chưa đến sáu giờ, chiếc xe Pontiac màu cà phê sữa đến. Chị Minh, trong bộ đồ màu xanh trứng sáo, ra đón người đàn ông ở ngoài sân. Trên phòng, con gái chị Ánh đã giúp chị sửa soạn máy quay phim đâu ra đó. Giờ chị chỉ cần đưa ống kính qua lại để thâu hình cho chính xác. Chị đang say sưa nhìn trong màn ảnh hình của chị Minh và người đàn ông thì chuông điện thoại reo. Chị không thể bắt ngay được vì đang lúc hấp dẫn: chị Minh đang đứng cạnh người đàn ông ra chiều âu yếm, chỉ hai lẳng hoa treo trước nhà, nói một điều gì đó. Người đàn ông gật đầu mỉm cười và vỗ vai chị Minh. Trong khi đó, tiếng chuông điện thoại vẫn cứ reo. Chị Ánh nghĩ, người nào gọi mình đây chắc là có chuyện cần lắm. Chị vội bước tới đầu giường con gái, cầm ống nghe lên. Tiếng một người đàn bà ở bên kia đầu dây the thé:

- Làm gì mà không chịu bắt phone vậy bà? Nè, con Minh nó có mời bà đi dự tiệc tối thứ bảy này không? Nó mời vợ chồng bà Hưởng đó.

Chị Ánh vừa nghe điện thoại, vừa cố lách mình đi qua chỗ đứng nhìn vào màn hình. Chị phải làm vậy vì phòng con gái quá chật, để máy quay phim đã choán hết lối đi. Đó là chân máy đã để dụm lại, chứ chưa dang rộng ra đấy. Trong lúc quá vội vàng, chị đã đá phải chân máy rất mạnh, làm máy rớt xuống, miểng nhựa máy bị bể văng tứ tung. “Thôi rồi, đến nước này thì làm sao đem trả lại được. Lại mất toi mấy trăm bạc nữa rồi”. Chị tiếc đứt ruột nghĩ thế vì hiện chị đang cần dành dụm tiền để có đủ số tiền ứng trước mua chiếc xe Honda Accord.

Lúc này, cảnh chị Minh và người đàn ông đang trò chuyện trước sân không còn hấp dẫn chị nữa. Trái lại, chị thấy rất gai mắt, làm chị khó chịu, dường như họ đang trêu  tức mình vậy. Chị vừa bực, vừa buồn theo thang gác xuống nhà dưới. Chị đi mà không biết xuống nhà làm gì. Đứng tần ngần một lúc, định thần lại chị mới nhớ ra là mình cần cái xúc rác để lên hốt mảnh vụn của máy.

Đêm hôm đó tâm trạng chị rối bời như tơ vò. Phần thì tiếc phải mất đứt hơn ba trăm đô để lấy cái máy. Phần thì nóng lòng chờ xem chị Minh có gọi mời đi dự tiệc nhà hàng tối thứ bảy không. Chị mong vậy vì muốn biết chị Minh giới thiệu người đàn ông kia là ai mà chờ hoài, đã hơn mười giờ đêm, vẫn không thấy gi cả. Có lúc chị rất mâu thuẫn với mình, có vẻ hồi hộp sợ chị Minh gọi lắm. Vì nếu vậy, có thể sự việc không xấu như chị nghĩ. Nhưng rồi, do bản tính ưa tìm cái xấu của người nên chị cố moi trong đầu xem người nào quen với bà Hưởng để nhờ hỏi xem chị Minh mời đi dự tiệc vì lý do gì. Chị Ánh rất mặc cảm, không muốn gọi hỏi trực tiếp bà Hưởng vì lâu nay chị không chơi thân với bà.

Cái khổ vì ray rứt suy nghĩ cách nọ, cách kia để biết được câu chuyện giữa người đàn ông và chị Minh, cùng với sự hối tiếc làm bể máy quay phim, đã dày vò chị Ánh suốt một đêm. Chị khó tìm được giấc ngủ yên bình, không mộng mị. Sáng ra thức giấc, chị Ánh thấy trong người uể oải lắm.

Đứa con gái hiểu tâm trạng của mẹ nên vừa nghe tiếng chân mẹ xuống nhà dưới, cô đã vội bước theo ngay. Hai mẹ con ngồi nói chuyện rất lâu trong phòng gia đình. Chị Ánh rất sung sướng đã có một đứa con rất thương yêu chị. Chị làm điều gì, con gái chị không cần đắn đo suy tính điều đó đúng hay sai, cô đều hưởng ứng nhiệt tình. Như có lần chị ghét một người trong hãng, chị về nhà bảo con gái gọi cho anh “sếp” người Mỹ, báo cho anh ta biết một điều sai lầm về người chị ghét, con gái chị làm ngay, không phân vân, do dự. Rồi trong chuyện này, cô trấn an mẹ là đừng lo gì. Chiều nay cô và mẹ sẽ vào nhà hàng đó ăn cơm tối. Giờ chị mới thấy đứa con gái mình chưa đầy ba mươi tuổi đã tỏ ra già dặn, sâu sắc không thua gì chị. Hơn thế nữa, cô lại còn có bản lĩnh, gan lì hơn chị. Chị thầm nghĩ: “hổ phụ sinh hổ tử” rồi mỉm cười sung sướng.

Ngày hôm đó, nhờ có quân sư tại gia, chị có được tin rất vui như cặp vợ chồng đứa con gái út chị Minh không đi, nên chị đỡ lo phần nào. Chiều đến, con gái chị xin về nhà sớm hơn mọi khi để sửa soạn đi với mẹ. Hai mẹ con đã đến nhà hàng sớm hơn giờ chị Minh mời khách khoảng mươi phút. Chị Ánh do dự không muốn vào vì sợ chị Minh thấy. Đứa con gái khuyên chị: “Mẹ cứ đi vào tự nhiên, coi như mình không biết họ có bữa tiệc hôm nay”.Chị Ánh hơi yên tâm theo con bước vô, nhưng chị vẫn rón rén bước, chứ không dám bước mạnh chân như sợ có người nghe.

Hôm ấy, nhà hàng có tiệc cưới. Khách chưa đến nhiều nhưng những người phục vụ đã dùng những tấm màn chắn có khung gỗ để chia phần dành cho đám cưới và phần riêng cho thực khách lẻ. Khu này vỏn vẹn chỉ có năm bàn. Chị Ánh đưa mắt liếc nhanh khắp một vòng khu vực này. Chị thở phào thật mạnh khi thấy chị Minh ngồi xoay lưng về phía chị, tại một bàn trong góc, có tấm màn chắn che ngang, cùng với hai người đàn ông. Chị vững tâm tiến tới một bàn không xa bàn của chị Minh mấy, nhưng chắc chắn khi họ có đi ra, không ngang qua bàn chị. Ở bàn bên kia, chị Minh và hai người đàn ông chuyện trò rất thân mật. Chị Ánh đang cố gắng theo dõi câu chuyện của họ thì bỗng có tiếng chân người bước tới. Chị Ánh quay lại và giật mình đánh thót, biến sắc mặt khi thấy vợ chồng chị Hưởng đi vào. Nhưng thật may mắn cho chị Ánh, anh Hưởng có người quen đi dự đám cưới, đến hỏi chuyện. Do đó, anh chị ấy không nhìn ai chung quanh cả. Lúc này, chị thở hơi ra, hít hơi vào thật mạnh, cố giữ bình tĩnh để lỡ chị Hưởng có thấy, vẻ mặt chị cũng không mất tự nhiên. Chị thầm cám ơn người đi dự tiệc cưới kia đã vô tình giúp chị có thời giờ trấn an tinh thần. Niềm vui của chị kéo dài chưa được vài phút thì chị Minh ngồi chờ khách mời, mãi chưa thấy đến, cũng sốt ruột, đã nhìn ra và thấy vợ chồng anh Hưởng. Chị Minh đứng lên ra đón họ. Chị Ánh thấy chị Minh đi ra thì mặt tái đi vì nghĩ thế nào khi dẫn khách vào chị Minh cũng thấy chị. Nhưng không, chị Minh chỉ chờ cho anh Hưởng nói chuyện xong với người bạn kia rồi mời vào bàn, chứ không để ý tới ai khác. Chị Minh chỉ những người trong bàn, nói:

- Hôm nay có bữa tiệc đặc biệt. Và cũng đặc biệt vì khách mời hôm nay chỉ có anh chị…

Chị Minh chưa kịp giới thiệu tên từng người thì anh Hưởng trố mắt nhìn người khách đã đến nhà chị Minh cách đây mấy hôm và nói:

- Trời ơi! Quang…phở.

Chữ “phở” anh nói thật nhỏ vì sợ chạm tự ái người mới gặp.

Họ ngồi nói chuyện với nhau khá lớn tiếng. Dường như nỗi cảm xúc đã đến với họ quá bất ngờ nên họ không thể kềm giữ âm giọng ở mức độ vừa phải. Thoạt tiên, hai người hỏi về công việc làm của nhau. Xong bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa của họ cứ lần lượt được kể ra. Chị Ánh không cần cố gắng lắng nghe. Chị đã nghe rõ mồn một mọi chi tiết trong hơn mười phút qua. Giờ chị đã biết người đàn ông chị đang muốn tìm hiểu tên là Quang. Anh mới từ Nhật qua để tìm hiểu thị trường làm ăn ở Mỹ, vì hãng anh đang làm việc muốn đầu tư vào đây. Về mối quan hệ gặp gỡ giữa Quang và Hưởng ngày xưa, chị nghe được, rất cảm động.

Lúc còn đi học, Quang rất mến Hưởng vì Hưởng học rất giỏi. Quê Hưởng ở một tỉnh miền Trung xa lắc, xa lơ, Quảng Ngãi. Gia đình Hưởng không giàu có, làm nghề nông. Thấy con ham học, cha Hưởng đã cắt lần mảnh vườn rất rộng của ông bà để lại, bán cho con vào Sài gòn ăn học. Anh ở trọ trong một nhà trọ cho học sinh, sinh viên ở đường Lý Thái Tổ. Có lần Quang vô phòng Hưởng chơi, thấy chỉ có một cái giường, đủ cho một người nằm thẳng, chớ không đủ để trở mình qua lại. Còn đèn học chỉ có một bóng đèn tròn, sáng tù mù. Tiền gia đình cho rất eo hẹp. Hưởng chỉ có thể thuê một căn phòng như thế. Thấy vậy, Quang về thưa cha mẹ hoàn cảnh của Hưởng rồi đưa anh về nhà ở. Hưởng sống rất có lễ nghĩa. Cứ một năm hai lần, anh về thăm quê: Tết và hè. Mỗi lần vào, anh đều đem rất nhiều món quà đặc sản của quê hương anh để biếu gia đình Quang như mạch nha, đường phèn, đường phổi, kẹo gương. Ngoài những món ấy, thỉnh thoảng Hưởng còn đem theo vào đường mía non đổ trong tô sành lớn, khoai lang xắt lát đã phơi khô hoặc bánh tráng nướng, cả hai đều đã được trụng trong nước đường mía non vừa mới nấu tới, ăn nghe ngọt lịm. Có khi anh định đem nước chè hai, bỏ trong chai thủy tinh cho Quang uống thử để biết, nhưng không được vì rất mau chua. Đặc biệt anh còn đem đường cáu vào nữa. Anh khoe với Quang tất cả những thứ đó là sản phẩm từ lúa gạo, mía đường của quê hương anh. Mấy lần đầu, Quang thay mặt cha mẹ nhận, nhưng những lần sau anh từ chối vì gia đình anh chỉ muốn giúp người không vụ lợi.

Lúc họ còn học Đệ nhất ở một trường công lập tại Sài gòn khoảng năm 1962, băng học giỏi trong lớp có bốn đứa nam. Đứa nào cũng có biệt danh đứng sau tên. Riêng Hưởng, lúc đầu bạn bè gọi anh là Hưởng “nẫu”. Nẫu là từ bạn bè anh hiểu: người miền Trung hay dùng để thay cho từ “họ”. Nhưng sau Quang thấy tên này không xác định rõ ràng, chính xác gốc gác của Hưởng vì có nhiều tỉnh miền Trung dùng từ “nẫu” nên sau Quang đặt tên khác cho anh và tên này mang chết cho đến ngày xa nhau: Hưởng đường cáu. Sở dĩ có tên này vì trong chỗ học của Hưởng lúc nào cũng có một thố đường cáu. Còn Quang đã được bạn bè đặt tên là Quang “phở”, hay có đứa bạn tinh nghịch đã bỏ tên Quang và chỉ gọi là Phở tàu bay. Vì hồi đó Quang thích ăn phở lắm, gần như tuần nào anh cũng phải ghé phở Tàu bay vài ba lần.

Anh Hưởng nhắc lại chuyện cũ đến đây làm cho mọi người cười oang oang. Anh nhìn anh Quang hỏi:

- Vậy đến đây cậu đã đi ăn phở chưa?

- Rồi. Hai ngày liền: chiều thứ năm và chiều thứ sáu. Cô em gái của mình đây đã đưa mình đến hai quán phở ngon nhất ở đây.

- Cũng tô xe lửa chớ?

- Dĩ nhiên.

            Chị Ánh nghe được tới đó thì lặng người đi. Đứa con gái chị, vẻ mặt cũng tỏ ra thất vọng vô cùng. Thế là cuộc theo dõi của họ để cố vạch ra cái xấu của bạn mình đã hóa ra công cốc.

              Cơm và món ăn đã đem lên. Những món ăn mà trước kia chị Ánh rất thích, đang nhè nhẹ tỏa hơi nóng và đưa mùi thơm phức vào mũi chị. Giờ chị không còn lòng dạ nào ngồi dùng tại chỗ nữa và gọi xin hộp “to go” đem về nhà.

              Trên đường về, con gái chị Ánh lái xe. Chị ngồi thẳng lưng, ngã người ra phía sau, hai tay buông thòng xuống ghế, dáng rất uể oải. Chỉ trong chốc lát, thoáng trong đầu chị, có một sự so sánh giữa bao nhiêu lần, chị cố tâm nói xấu để hại người trước đây và lần này: chị thấy rõ ràng trong những ngày qua, tâm chị quá lo lắng, tinh thần luôn căng thẳng, bạc nhược, sức khỏe sa sút rõ ràng và lại còn hao tổn tiền tài nữa. Bây giờ, chị mới thấy thấm thía về những điều sai lầm do sự thiếu chín chắn của chị đem lại. Chị đã thực sự cảm thấy hối hận và đã tự trách mình nhiều điều: Phải chi mình nghe lời chị Dung, tin là chị Minh không đời nào làm chuyện bậy bạ thì đâu có chuyện này xảy ra! Phải chi mình đừng nghe lời mấy người bạn đốc thúc thì đâu đến nỗi! Phải chi mình đừng tung tin này tại hãng thì có sao đâu! Bây giờ ai cũng biết hết. Mình ăn làm sao, nói làm sao với chị Minh đây? Phải chi …và …

Đầu óc chị Ánh lẩn quẩn mãi với những điều tự trách mình nên tâm hồn chị vẫn cứ trĩu nặng, lồng ngực như có vật gì đè ép đến muốn ngạt thở. Bỗng chị lắc đầu qua lại mấy lần, dường như để xua đuổi những ám ảnh đang dày vò tâm tư chị.

Về đến nhà, con gái chị hối thúc chị đi tắm ngay. Chị mệt và uể oải lắm, chỉ muốn đi nằm chứ không muốn làm gì. Con gái chị lại năn nỉ chị đi tắm lần nữa, chị mới chịu nghe theo. Làn nước mát toả từ đầu lan xuống khắp thân mình làm chị thấy dễ chịu. Lồng ngực không còn bị đè nén khó thở nữa. Đầu óc bưng bưng, căng thẳng cũng tự nhiên biến đi ngay. Thì ra làn nước mát có thể chữa được căn bệnh tinh thần, đã làm chị bải hoải, chán chường từ lúc ra khỏi nhà hàng.

Đêm hôm đó vào giường ngủ, chị Ánh thấy trong lòng có vẻ dễ chịu lắm. Nhưng cái cảm giác êm ả đó không kéo dài được bao lâu. Nỗi hối hận về cách cư xử quá tàn nhẫn với một người bạn lúc nào cũng thương mến mình, đã trở lại ám ảnh chị. Chị chịu sự ray rứt như thế kéo dài cho tới khi mệt lả và chị ngủ đi lúc nào không biết. Khi thức giấc, chị cảm thấy thân mình uể oải, rã rời như người vừa ốm dậy. Chị cố ngồi nhổm lên, nhìn vào tấm gương cạnh giường và thấy đôi mắt mình như trõm sâu, có quầng thâm, nước da tái nhạt. Nhìn vào đồng hồ, chị thấy còn quá sớm nên lại đắp mền nằm nữa. Chị nghĩ đến cảnh sáng mai vào hãng làm việc, thế nào cũng có người hỏi chị thêm về việc chị Minh. Nghĩ đến đây, chị cảm thấy hơi lo phải gặp anh Thịnh, người công nhân già nhất trong hãng, vì dường như anh ấy không thích việc chị làm. Chính ngay sau khi nghe chị phao tin về chị Minh, anh ấy nói:

- Muốn tìm hiểu một sự việc hay đánh giá một con người, hãy nhắm mắt lại. Kết quả đem đến sẽ chính xác nhiều hơn là mở mắt. Vì mở mắt chỉ thấy cái lộ ra, cái xuất hiện trước mắt, chứ không hiểu được những cái còn tiềm ẩn ở bên trong.

 Rồi anh tiếp: - Cũng do cái cách đánh giá mở mắt, thấy sao nói vậy, nên đã có biết bao người chịu đựng tiếng đời mỉa mai, châm biếm oan ức.  Và có khi từ cái tin đồn xấu sai lạc này, một số người lại suy diễn ra: nó có cái xấu này, tức phải có cái xấu kia, nên đã gán ghép vô tội vạ thêm cho một vài cái xấu khác nữa. Còn những người nhắm mắt đánh giá, họ chịu khó tìm hiểu cặn kẽ hoàn cảnh, nguyên nhân và mục đích của sự việc nên kết qủa chính xác hơn nhiều.

Anh Thịnh còn nói dài lắm, nhưng chị Ánh chỉ nhớ một vài điểm chính như thế. Chị hiểu là anh ấy muốn ám chỉ chị đã phao tin về chị Minh trong cái nhìn hời hợt. Lúc ấy chị giận lắm, nhưng bây giờ chị thấy thật thấm thía. Chị liên tưởng đến chuyện ngày xưa của mình: chị bị phao tin đồn là ngoại tình với Tịnh, cũng do cái thấy bên ngoài cạn cợt rồi kết luận, đã làm chị mang tiếng oan suốt một đời. Nỗi oan ấy không làm sao giãi bày được. Chị phải chịu ngậm đắng nuốt cay bao nhiêu lâu nay.

Giờ chị muốn làm như anh Thịnh nói, nhắm mắt lại để suy nghĩ, để tìm hiểu  nguyên nhân đã gây nên những lỗi lầm đã qua. Thoạt tiên, chị cho là do tính mình hời hợt, vội vàng. Rồi tiếp đến chị nghĩ vì tính chị không muốn hòa đồng với mọi người, thấy ai cũng ghét, ai nói gì, làm gì cũng không ưa. Lý do nào, suy xét kỹ chị đều thấy không hoàn toàn đúng trong trường hợp vừa xảy ra. Cuối cùng, chị bừng sực nghĩ ra, đúng rồi, nguyên nhân đã tạo ra mọi rắc rối trong đời chị là tính đua đòi và đố kỵ. Chị nghiệm thấy vì có tính đua đòi nên chị ít khi chịu thua người. Rồi khi biết là thua người, chị sinh ra ganh ghét, đố kỵ. Điều đó đã gây ra biết bao tệ trạng trong bao nhiêu năm qua.

Ngẫm lại hiện tại chồng chị và chị không còn hòa thuận như xưa cũng vì tính chị ưa đua đòi cho bằng người nọ, người kia. Những năm đầu mới qua Mỹ, tiền làm ra hàng tuần của hai vợ chồng đã bỏ chung trong một tài khoản. Rồi họ đã mua được nhà, sắm được xe riêng cho mỗi người đi làm. Khi đã tạm ổn định được cuộc sống, chị bắt đầu nhìn bạn bè chung quanh. Thấy ai có nhẫn, bông tai hột xòan, chị rỉ tai chồng bảo để dành dụm tiền mua cho chị, chứ đi dự tiệc hay đám cưới, người ta có mà mình không có, họ sẽ khinh. Rồi chị tiến xa hơn nữa, muốn luôn có những bộ đồ đi dự đám cưới phải đổi mới. Tiền của chị và chồng làm ra bao nhiêu, chỉ đủ cho chị mua sắm cho chính mình. Ở Việt nam, chồng chị còn cha mẹ già, suốt nhiều tháng không gởi về cho ông bà  đồng nào, đã làm anh nóng ruột. Anh nhẫn nhịn chịu đựng, nhưng không chịu nổi. Thế là những cuộc cãi vả về tiền nong đã làm mất niềm hòa khí trong gia đình. Anh đem chữ hiếu của con đối với cha mẹ ra nói với chị, chị không thèm để ý tới. Chồng chị thấy đó là cách đối xử tệ bạc của người ích kỷ, chỉ biết sống cho riêng mình. Từ đó, hai vợ chồng mở tài khoản riêng. Họ sống chung trong một nhà, nhưng ít khi họ hỏi tới nhau, trừ trường hợp có ai mời dự tiệc, đám cưới họ vẫn đi chung và nói với nhau những câu chiếu lệ, để tránh miệng đời đàm tiếu.

Sự việc ấy đã xảy ra cả gần năm nay nhưng chị không lấy thế làm buồn, vì hằng ngày chị đã có một số khá đông bạn bè, có vẻ rất ăn ý với chị, thường xuyên điện thoại chuyện trò hoặc đi shopping mua sắm đồ. Giờ chị mới nhận thấy, chính họ là những người đã tạo cho chị sự đau khổ vừa qua. Bỗng chị nhớ tới câu nói của một người bạn đã nói với chị hồi lâu lắm: “Đừng sợ những người hay phản đối mình, mà sợ những người luôn tán đồng lời nói hay việc làm của mình”. Chị thấy lời nói thật chí lý trong hoàn cảnh của chị bây giờ.

Thật vậy, giờ chị đã nhận ra chị Dung mới là người bạn tốt. Trong đời chị, ít ra đã có hai lần chị Dung phản đối việc chị làm. Một lần chị Dung đã can ngăn chị đừng giao thiệp quá thân tình với Tịnh và lần này chị đã tỏ ý không tin chị Minh ngoại tình. Rất tiếc những lần ấy chị đã không chịu nghe nên mới ra cớ sự. Chưa bao giờ chị cảm thấy thương mến chị Dung bằng lúc này. Rồi chị miên man nghĩ tới những cái tốt của chị ấy trước kia.           

Ngày ấy, chị Ánh mới học hết bậc trung học, rời Sài gòn để về quê sinh sống. Một lần nọ đi chợ, chị đã gặp chị Dung đứng quyên tiền giúp đồng bào nạn nhân bão lụt. Chị đã không cho còn tỏ vẻ khó chịu, lầm bầm nói: “Làm chuyện tào lao. Ăn cơm nhà, vác ngà voi”. Rồi không ngờ, sau hai người lại dạy chung một trường. Chị tưởng chị Dung ghét chị nhưng không, chị ấy vẫn thản nhiên, như không nhớ gì chuyện cũ. Chị biết chị Dung được nhiều người mến, một phần do tính chị thành thật, ngay thẳng, phần khác do chị có người cha rất quảng đại và nhân từ. Ông là một thầu khoán có tiếng trong thị xã. Ông được các trường học, các tổ chức từ thiện…đặt cho cái tên là Mạnh Thường Quân. Ông sống rất bình dân, thích giúp đỡ người nghèo hay bất cứ ai gặp lúc khó khăn, hoạn nạn. Như có một lần, một người đàn bà đã đến kêu khóc, cầu xin ông giúp tiền để bà mua được thuốc đặc trị, cứu con bà trong cơn nguy khốn tại bệnh viện. Ông đã sẵn sàng giúp và giúp cho đến khi con bà bớt bệnh về nhà. Ông thường nói với các con ông:

“Dù xây chín bậc phù đồ,

Không bằng làm phước cứu cho một người…”

Có khi ông đem hết tiền kiếm được trong việc thầu khóan cho nơi này, nơi kia. Mẹ Dung có lúc phải phàn nàn. Ông cười khề khà nói: - Tích ngân không bằng tích đức.Rồi ông an ủi vợ: - Cứ giúp người đi rồi trời sẽ giúp mình bà ơi.

Chị Dung đã hấp thụ được tính thương người và thích giúp người của cha. Chị cũng như cha, sống rất giản dị, nên dù cho có phải chi quá nhiều thứ trong cuộc sống hằng ngày ở Mỹ, chị vẫn có dư dật. Đi đường, trong xe chị, lúc nào cũng có dăm đồng tiền lẻ. Hễ thấy người ăn xin đứng mang tấm carton ghi chữ “homeless”, chị lấy cho một, hai đô. Thấy toán người cứu trợ mặc đồng phục trắng, đưa thùng ra xin tiền, chị vui vẻ cho ngay. Rồi có lúc, có hội đoàn người Việt Nam quyên tiền giúp những người không may mắn ở quê nhà vì bão lụt, vì cuộc chiến tranh năm xưa, chị hưởng ứng không chút do dự. Rồi nào là gia đình bạn bè có tang chế, chị sẵn sàng góp phần giúp đỡ… Tất cả những việc làm ấy đã đem lại cho chị Dung những niềm vui sướng nhẹ nhàng. Chị Ánh nhớ có nhiều lần chị Dung đã kể lại cảm giác đó cho nhiều người nghe. Lúc đó, có người, trong đó có chị Ánh, nghĩ là chị Dung hay khoe khoang, nhưng thật sự trong thâm tâm chị Dung khi kể lại những chuyện này, chị chỉ mong mọi người nên làm như vậy. Giờ này có một câu chuyện về chị Dung còn ghi sâu đậm trong tâm tư chị là lần chị ấy giúp một người đàn bà Mỹ trắng.

Hôm ấy, vào một ngày mùa đông giá lạnh, nhiệt độ ở âm độ, chị Dung lái xe qua một khúc quanh thì thấy một người đàn bà Mỹ trắng, đứng sau xe của mình, đậu sát bên con lươn của xa lộ, nhìn mọi xe đi qua với đôi mắt như muốn cần sự giúp đỡ. Xe nào đi trước chị cũng đều phóng rất nhanh. Hơn nữa, tới khúc cua họ mới thấy nên chẳng ai có thể dừng lại để giúp. Lúc ấy, xe chị đi ở làn xe trong cùng. Chị nghĩ, có lẽ, mình nên dừng lại để hỏi xem bà ta cần gì. Nếu chồng chị có thể giúp, chị sẽ vào cây xăng gọi anh ấy đến.

Chị xuống xe, đi bộ ngược lại về phía bà Mỹ, dưới cái rét mùa đông, lạnh buốt thấu xương. Thấy chị đi tới, bà lộ vẻ vui mừng, vội đi về phía chị, trong dáng đi thật nặng nề. Sau một vài lời trao đổi, chị biết xe bà hết xăng. Chị đưa bà đến cây xăng, rồi tắt máy ngồi chờ. Mấy phút sau bà ra với can nhựa trên tay, nhìn chị bằng đôi mắt long lanh, sung sướng, vì dường như bà không nghĩ rằng chị ở lại chờ chở bà. Khi chị Dung đưa bà về tới nơi, bà xuống xe, rồi hỏi trả tiền công cho chị. Chị lắc đầu nói là chị chỉ giúp bà thôi. Bà ta cảm động, cám ơn rối rít và ôm qua vai chị Dung, siết thật chặt. Bà hỏi chị người nước nào. Chị trả lời: “Việt Nam” và thấy trong ánh mắt bà lộ rõ sự xúc động lẫn cảm phục. Chị lái xe đi mà thấy niềm vui lâng lâng tràn ngập trong lòng. Chị thật sự không ngờ chị chỉ giúp người trong một sự bộc phát tình cờ nhưng đã làm cho một người Mỹ cảm kích về lòng tốt của một người Việt Nam. Chị Ánh đã nghe câu chuyện ấy từ lâu lắm nhưng chị không để ý đến. Nay vì cảm mến chị Dung, tự nhiên những việc làm tốt của chị ấy cứ hiện ra trong tâm trí chị…

Chị Ánh đã so sánh cách sống để tạo niềm vui của hai người. Chị thấy cách của mình rất tốn kém và làm cho nhiều người gai mắt. Còn cách của chị Dung đơn giản quá, dễ làm quá, mỗi tháng có tốn kém bao nhiêu đâu. Sao mình không tìm niềm vui trong những việc làm dễ dàng và thật đẹp như vậy mà cứ viễn vông đeo đuổi những cái tạo nên sự vui thích quá đắt tiền. Chẳng hạn, như dự định, sắp tới đây chị phải bỏ tiền ứng trước chừng ba ngàn đô để mua chiếc xe Honda Accord đời mới. Chị phải trả trong năm năm. Những năm đầu, mỗi tháng ít nhất chị phải trả tiền lời từ 150 đô tới 200 đô. Nói chung, sau khi trả xong hết nợ xe, coi như mượn hơn ba vốn phải trả mất một lời. Tiền lời là tiền mất đứt. Vậy là một số tiền làm ra cực nhọc sẽ thả cho gió theo mây ngàn bay. Chị đã nghe một vài người nói về điều ấy rồi nhưng tính đua đòi đã che lấp hết trí khôn nên chị không biết gì tới lợi hại nữa và chị đang muốn lao đầu vào.

Nay sau lần bị hố nặng, chị Ánh đã biết suy xét lại và có ý muốn phục thiện. Vậy nên chị đã thực sự chán ngán lối sống bao lâu nay của mình. Chị nghĩ nếu chị bắt chước chị Dung sống giản dị, người sung sướng nhất đầu tiên phải là chồng chị. Vì khi chị chịu bỏ tính đua đòi, nguyên nhân của sự rạn vỡ tình vợ chồng, thì sự hòa thuận gia đình sẽ đến. Và chắc chắn nó sẽ đem lại nguồn hạnh phúc tươi vui biết bao mà chồng chị hằng mơ ước. Chị chỉ mới nghĩ tới thôi, lòng chị lúc ấy đã có cái cảm giác rộn ràng, lâng lâng như sau những ngày chị sống trong mưa bão dầm dề rồi được thấy ló dạng ánh mặt trời vậy. Có lẽ đúng thế, những đố kỵ, giận ghét, hận thù, hơn thua, cố chấp, bắt bẻ là những cơn bão tố trong đời sống tinh thần. Còn lối sống bình dị, hòa đồng, thương yêu người, dễ tha thứ và thích giúp người rõ ràng đẹp như những buổi bình minh sau giông bão.

Sáng nay, chị Ánh chỉ mới nghĩ tới cái hay, cái tốt của một người thôi, sao mà lòng chị thấy vui và nhẹ nhàng quá. Chị vẫn cứ nhắm mắt để tận hưởng niềm vui sướng bao lâu nay chị không hề có. Và rồi chị lại tiếp tục nghĩ tới những điều đẹp như thế.

Chị nghĩ ngay tới tình bạn của anh Quang và anh Hưởng. Một tình bạn thật cao đẹp. Họ thương mến nhau, một đằng vì có tính ưa giúp người không mong sự trả ơn, còn đằng kia vì có cá tính sống rất nghĩa tình, có ơn thì tìm cách trả, trả không được thì nhớ hoài. Họ đem lòng thành mà đối xử với nhau nên dù có xa cách bao nhiêu năm, tình bạn khi gặp lại, vẫn thắm thiết như xưa. Chị Ánh liên tưởng tới tình bạn của mình với chị Minh…Chị không muốn nghĩ đến vì sợ sẽ làm gián đoạn niềm vui đang dạt dào trong lòng chị.

Chị Ánh biết rằng chị Minh và cả chồng chị luôn luôn tốt với chị và xem chị như một người thân của gia đình. Có cái gì hay, cái gì đẹp cần làm để tạo cho cuộc sống thêm tươi vui, họ đều nói với chị. Trước đây, chẳng bao giờ chị thèm để ý tới cái hay, cái tốt ở nơi họ. Nhưng sáng mai nay, tất cả như một cuốn phim chiếu lại, lần lượt diễn ra trong đầu óc chị.

Anh Bình, chị Minh năm nay, tuổi ước chừng trên dưới 55. Con cái đều đã thành gia thất nên anh chị không còn lo cho kinh tế gia đình. Tuổi sắp về già, anh chị muốn có một đời sống tinh thần an ổn. Vậy nên anh chị thường lui tới chùa để làm nguồn vui. Ngoài việc tới đây để làm công quả, tụng kinh, niệm Phật, anh chị còn tìm đọc những sách giảng giải về giáo lý, nghe những băng thuyết pháp để hiểu thêm về những cái hay của đạo Phật. Riêng anh Bình rất thích tìm hiểu những hạnh tu để dẹp bỏ những căn bệnh con người thường phạm phải. Gặp câu gì hay về khuyên dạy tu tập, anh đều ghi vào quyển sổ riêng. Chị Ánh có lần qua nhà chị Minh chơi, đã tò mò lật quyển sổ ấy ra xem. Có một chỗ anh ấy ghi chữ lớn và đóng khung lại. Chị Ánh thấy lạ đọc chơi, nhưng không ngờ tới lúc này chị vẫn còn nhớ:

     “Nhẫn những việc khó nhẫn,

     Giúp những điều khó giúp,

     Hòa những người khó hòa,

     Xả những điều khó xả…”

Bên ngòai phần ấy, anh có ghi câu: “Kiên trì làm cho được sẽ đem lại nguồn vui tinh thần dài lâu.”

Và rồi chị Ánh đã lật sang trang tiếp để xem anh Bình ghi những gì nữa. Ở đây anh ghi mười hai căn bệnh của con người. Giờ chị không thể nhớ hết, nhưng chị chỉ nhớ thật rõ mấy căn bệnh chính chị mắc phải:

     “…Lời nói hại người,

     Hay tìm lỗi người,

     Phạm tội không hối…”

Bên dưới anh ghi hàng chữ: “Cố gắng chữa được những căn bệnh này để tránh tạo nghiệp xấu.”

Bây giờ, tâm chị đang lắng dịu và lại có đủ thời giờ suy nghĩ nên chị thấy những lời khuyên kia hay quá. Bao nhiêu lâu nay chị chìm đắm trong cái vui về của cải vật chất, nhưng những thứ ấy nào có đem lại cho chị niềm vui trọn vẹn lâu dài đâu. Nay nhớ lại những điều anh Bình ghi trong sổ, chị thấy nếu làm được vậy thì giá trị của niềm vui tinh thần thật tuyệt vời và bền vững. Tới đây chị muốn tìm một giấc ngủ thật yên bình để sáng ngày mai qua nhà chị Minh nhờ quá giang xe đi chùa. Chị hy vọng theo vợ chồng anh Bình, đời chị sẽ tươi đẹp hơn. Nhưng chị lại nhớ tới chuyện xảy ra mấy ngày qua. Chắc là chị Minh chưa biết điều gì cả. Chị nghĩ chị sẽ không để cho chị Minh nghe ai nói mà chính chị sẽ nói hết những điều ấy ra. Chị tin chị Minh sẽ tha thứ cho chị vì chị nhớ anh Bình đã có lúc nói một điều trước chị và chị Minh rồi chị Minh khen là rất hay: - Làm cái xấu mà chịu nhận mình đã làm xấu để rồi bỏ là tốt.

Hơn nữa đã có đôi lần, chị Ánh nghe vợ chồng anh Bình nói rằng những cái gì xảy ra không tốt cho mình, như có kẻ nào vu mình làm chuyện xấu chẳng hạn, thì đó có thể là do cái nhân xấu mình đã gieo trong một kiếp trước và nay mình phải chịu cái qủa như vậy. Chị nghĩ quan niệm như thế thì mọi chuyện xấu đến với mình đều do lỗi mình cả. Thật vui sướng biết bao cho những ai hiểu và làm được như vậy, chị Ánh thầm nhủ. Do nghĩ thế nên chị tin  khi chị thú nhận lỗi lầm, hy vọng chị Minh sẽ không giận chị đâu. Tuy lý luận nghe có vẻ rất lạc quan nhưng chị Ánh vẫn thấy lo trong lòng. Chị e rằng lời nói và việc làm không giống nhau vì chị đã từng thấy nhiều người nói nghe thật là hay, chừng khi đụng việc mới biết.

Sáng ra chưa đến chín giờ, chị Ánh đã sửa soạn xong và qua nhà chị Minh. Chị đến cửa, định bấm chuông rồi lại ngừng. Chị khá hồi hộp, không biết rồi sự việc sẽ xảy ra như thế nào. Chị không muốn chần chờ và khi chị Minh vừa mở cửa, chị nói ngay. Chị qua là nhờ chị Minh cho chị đi chùa vì chị chưa rành đường đến đó. Nghe chị Ánh đề nghị một điều, thật chưa bao giờ chị Minh nghĩ tới, đã làm chị hết sức ngạc nhiên. Sau một hồi trò chuyện, chị biết chị Ánh đang trải qua một cơn sốc tinh thần rất mạnh. Chị đã an ủi chị Ánh không nên quá buồn về những việc đã xảy ra bằng lời nói chân tình và nét mặt thật thanh thản, tự nhiên. Cách cư xử đó của chị Minh hiện ra trước mắt chị Ánh, khác với những điều chị vừa nghi ngờ. Chính vì vậy nên từ đôi mắt thật dịu hiền của chị Minh nhìn chị lộ đầy tình thương mến đến lời nói nhẹ nhàng và các từ dùng không hàm chứa một chút gì trách móc, giận hờn đã làm chị Ánh xúc động đến nghẹn ngào và chị đã ôm chầm lấy chị Minh. Chị Ánh không nói nên lời, nhưng nước mắt cứ tự nhiên lăn dài trên má chị. Chị Minh cũng cảm động nhiều lắm. Chị kìm tiếng khóc trong sự sung sướng. Chị sung sướng, một phần vì ít nhiều chị đã cảm hóa được một người bạn có nhiều tính sai quấy bằng một tấm lòng chân thành. Chị cũng sung sướng, một phần khác, vì chị đã thực hiện trọn vẹn điều chị hằng tâm niệm từ lâu là phải luôn ghi nhớ áp dụng trong cuộc sống hằng ngày câu:

          “Lấy ân báo oán, oán tự tiêu tan.

          Lấy oán báo oán, oán thêm chồng chất…”

Giờ đây những tấm gương trong sáng về lối sống vị tha, thương người và hay giúp người của những người bạn tốt như vợ chồng anh Bình và chị Dung đã gây một ấn tượng đẹp, sâu xa trong lòng chị Ánh. Chị biết với bản tính của chị, không phải một sớm một chiều tu dưỡng là có thể đạt được những đức tính của họ. Chị mong muốn có một đời sống như họ để tìm những nguồn vui mới mà chị chắc chắn sẽ đem lại cho chị niềm hạnh phúc lớn lao. Rồi chị bày tỏ với chị Minh ý muốn có một đời sống tinh thần dễ chịu, lòng không phiền não, ưu tư. Chị Minh nghe thế, lòng thấy vui lên vì chị vừa được một người bạn cho một cuốn băng niệm Phật, niệm sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”, chị hy vọng sẽ làm chị Ánh hài lòng. Chị nói: - Muốn đạt được những điều chị muốn, chị hãy cố gắng lắng nghe cuốn băng niệm Phật này nhiều lần mỗi ngày. Trong lúc đi xe tới hãng, hoặc trên đường về nhà, chị nên nghe băng này thì tốt lắm. Chị sẽ đạt được điều nguyện ước nhanh hơn.

Nói rồi chị bỏ cuốn băng vào máy cassette cho chị Ánh nghe liền. Chị Ánh ngồi tựa lưng vào ghế sofa, đôi mắt nhắm lại, chăm chú lắng nghe. Băng niệm Phật này đã được ghi theo những nốt nhạc, lúc trầm, lúc bổng, đã đưa tâm hồn chị vào một cõi hư không, huyền ảo nào đó. Vốn bản tính thích âm nhạc, lại được nghe băng có điệu nhạc ru lòng  người nên chị cảm thấy vô cùng sung sướng. Và chị càng vui sướng hơn khi chị đọc theo băng. Chị nguyện kể từ nay, chị sẽ cố gắng học theo cách sống của chị Dung, chị Minh, nhẫn nại làm những điều chị đã học được trong quyển sổ của anh Bình và thường xuyên nghe cuốn băng chị vừa có. Chị hy vọng đời chị sẽ chuyển qua một hướng mới, tươi đẹp hơn.

Đêm hôm đó, chị đã say sưa nghe cuốn băng suốt mấy tiếng đồng hồ. Những từ của danh hiệu Phật  được phổ nhạc đã làm những nỗi ưu tư, phiền muộn trong lòng chị tan biến dần dần. Tâm chị như nhẹ hẳn đi và một cảm giác lâng lâng nhè nhẹ, lan tỏa khắp người.

Sáng hôm sau thức giấc, mặt trời ửng hồng đã ló dạng ở phương đông, chị Ánh nghe ngoài vườn tiếng chim hót líu lo. Chị vốn hiện đã vui, lại nghe tiếng chim ríu rít, bỗng một niềm vui sướng dạt dào dâng lên trong tâm hồn chị.

Chị ao ước sao trong suốt quãng đời còn lại của chị sẽ mãi mãi có những buổi bình minh chim hót đẹp và vui như hôm nay…

 

 

 
 
simple stats
lượt đọc kể từ Mùa Phật Đản 2552 - 2008