
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Phật Giáo Đại Chúng biên tập &
tổng hợp từ
wikipedia
Audio
Xưng niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ
Tát (mp3)
Quán
Thế Âm (觀世音,
Avalokiteśvara,
Kanzeon,
སྤྱན་རས་གཟིགས་),
cũng gọi là Quán Tự Tại.
Quán
Thế Âm là một trong những vị Bồ Tát quan trọng
nhất trong
Phật giáo
Đại
thừa. Phật tử Việt Nam, Trung Quốc thường thờ
cúng Bồ Tát Quán Thế Âm bên cạnh các vị Bồ Tát
Phổ Hiền (Samantabhadra),
Bồ Tát Địa Tạng (Kṣitigarbha)
và Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī).
Đó là bốn vị Đại Bồ Tát của Phật giáo Trung Quốc
và Việt Nam.
Tại
Việt Nam, Trung Quốc và Nhật, Bồ Tát Quán Thế Âm
còn được gọi tên là Bồ Tát Quan Âm
hay
Bồ Tát
Quán
Âm. Tại sao ngày nay phần đông chúng ta thường
gọi là Bồ Tát Quan Âm hoặc Bồ Tát Quán Âm thay
vì Bồ Tát Quán Thế Âm? Theo nhiều sử liệu ghi
chép, vào đời Đường dưới thời vua Lý Thế Dân
(sinh 599 - tử 649), dân chúng tránh dùng
chữ “Thế” trong tên vua Lý Thế Dân nên gọi tắt là
Quan Âm hoặc Quán Âm.
Tại
Tây Tạng, Quán Thế Âm (Chenresi)
là “người bảo vệ xứ tuyết” và có ảnh hưởng trung
tâm trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Người
ta xem Bồ Tát là cha đẻ của dân tộc Tây Tạng và
nhờ Ngài mà Phật giáo được truyền bá qua nhà vua
Tùng Tán Cương Bố (Songten
gampo,
sinh 620 - tử 649), được xem là một hiện thân
của Quán Thế Âm. Đạt Lại Lạt Ma và Cát Mã Ba (Karmapa)
cũng được xem là hiện thân của Quán Thế Âm. Câu
Man-tra “Om Ma Ni Pad Me Hum” được xem là thuộc
tính của Quán Thế Âm, là thần chú đầu tiên
truyền đến Tây Tạng và ngày nay được tụng đọc
nhiều nhất. Tranh tượng của Bồ Tát được biểu
diễn bằng một người có 11 đầu và ngàn cánh tay
hoặc trong dạng có bốn tay, ngồi toà sen.
Có
nhiều luận giải khác nhau về nguyên nghĩa tên
Ngài. Có người hiểu “īśvara”
là một “người nam” quán chiếu thế giới, có người
hiểu “svara”
là “Âm”, tức là vị Bồ Tát lắng nghe mọi
âm thanh
của thế gian.
Nhìn
chung, Quán Thế Âm Bồ Tát là thể hiện lòng Bi (karuṇā),
một trong hai dạng của Phật tánh. Vì vậy, có khi
người ta đặt tên cho Bồ Tát là bậc Đại Bi (mahākāruṇika).
Dạng kia của Phật tính là Trí Huệ (prajñā),
là đặc tính được Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī)
thể hiện. Quán Thế Âm là vị Bồ Tát thể hiện
nguyện lực của Phật A Di Đà (Amitābha)
và được xem như quyến thuộc của vị Phật này
(theo Tịnh Độ Tông). Với lòng từ bi vô lượng,
Quán Thế Âm Bồ Tát thể hiện sức mạnh huyền diệu
cứu giúp mọi chúng sanh quán tưởng đến mình lúc
gặp hiểm nguy. Trong nhân gian, Quán Thế Âm Bồ
Tát là vị bảo hộ tránh khỏi tai hoạ và hay được
phụ nữ không con cầu tự.
Trong
các loại tranh tượng về Bồ Tát Quán Thế Âm,
người ta thấy có 33 dạng, khác nhau về số đầu,
tay và các đặc tính. Thông thường ta thấy tượng
Bồ Tát có ngàn tay ngàn mắt, có khi 11 đầu. Trên
đầu có khi có tượng A Di Đà, xem như đặc điểm
chính. Trên tay có khi thấy Bồ Tát cầm hoa sen
hồng, vì vậy nên Bồ Tát Quán Thế Âm cũng có tên
là Liên Hoa Thủ Bồ Tát (người cầm hoa sen,
Padmapāṇi)
hay nhành dương liễu và một bình nước cam lồ (amṛta).
Số tay của Bồ Tát biểu hiện khả năng cứu độ
chúng sanh trong mọi tình huống.
Trong
tranh tượng với 11 đầu thì Bồ Tát Quán Thế Âm
mang 9 đầu của chín vị Bồ Tát, một đầu của một
vị Phật và cuối cùng là đầu của Phật A Di Đà. Cứ
mỗi ba đầu tượng trưng là ba đặc tính: Từ bi với
chúng sanh khổ nạn, Quyết tâm đối trị cái xấu,
Hoan hỷ với cái tốt. Theo một quan điểm khác thì
11 đầu biểu tượng cho mười cấp của Thập Địa Bồ
Tát và Phật quả.
Đôi
khi Quán Thế Âm Bồ Tát cũng được trình bày dưới
một dạng ít thấy, đó là “Sư Tử Hống Quán Tự Tại”
(獅子吼觀自在,
Siṃhanāda-Lokeśvara).
Dưới dạng này, Bồ Tát là một Dược Sư, đặc biệt
cứu độ những người bệnh phong cùi (lepra).
Mắt Bồ Tát đang nhìn bệnh nhân và mắt chính giữa
(huệ nhãn) đang tập trung chẩn bệnh. Hai bảo vật
bên vai cũng là những dụng cụ của một dược sĩ,
bình sắc thuốc bên trái của Bồ Tát và đao trừ tà
(bệnh) bên phải.
Một
thuyết khác giải thích tích của 11 đầu và nghìn
tay: lúc Bồ Tát Quán Thế Âm quán chiếu cảnh khổ
của chúng sanh thì đầu Bồ Tát đau xót vỡ ra từng
mảnh. Phật A Di Đà xếp các mảnh đó lại thành 11
đầu. Xuất phát từ nguyện lực cứu độ mọi chúng
sanh, thân Bồ Tát mọc ra nghìn tay, trong mỗi
tay có một mắt. Quán Thế Âm cũng hay được vẽ là
vị cứu độ chúng sanh trong sáu nẻo
luân hồi:
trong súc sanh Quán Thế Âm Bồ Tát hiện thân đầu
ngựa, hoặc cưỡi trên sư tử; trong địa ngục Ngài
hiện thân là kẻ có nghìn cánh tay; trong cõi
A-tu-la
Ngài
hiện thân có 11 đầu.
Tại
Trung Quốc -
trước
thế kỷ X
– hình
tượng Bồ Tát
Quán
Thế
Âm còn
được giữ dưới dạng nam giới, thậm chí trong hang
động ở Đôn Hoàng, người ta thấy tượng Quán
Thế
Âm
Bồ Tát
để
râu. Đến khoảng thế kỷ thứ X thì hình tượng Bồ
Tát Quán Thế Âm được vẽ mặc áo trắng, có dạng nữ
nhân. Có lẽ điều này xuất phát từ sự pha trộn
giữa Phật giáo và Lão giáo trong thời
gian đó. Một
cách giải thích khác là ảnh hưởng của Mật Tông
trong thời kỳ này: đó là hai yếu tố Từ bi (maitrī-karuṇā)
và Trí huệ (prajñā)
được thể hiện thành hai dạng nam nữ, mỗi vị Phật
hay Bồ Tát trong Mật tông đều có một "quyến
thuộc" nữ nhân. Vị quyến thuộc của Bồ Tát Quán
Thế Âm được xem là vị nữ thần áo trắng Đa-la (Tārā),
và Bạch Y Quán Âm là tên dịch nghĩa của danh từ
đó. Kể từ đó quần chúng Phật tử Trung Quốc khoác
cho Bồ Tát Quán Thế Âm áo trắng và xem như là vị
Bồ Tát giúp phụ nữ hiếm muộn. Một trong các lý
do đó là Phật
giáo không phân biệt nam hay nữ.
Khác với các thần thoại sơ khai quan niệm các vị
thần có giới tính và có sự sanh sản, Phật giáo không cho rằng
các vị thần của họ có giới tính và sự sanh sản. Do đó
việc quan niệm Quán Thế Âm Bồ Tát là nam hay nữ
không phải là vấn đề quan trọng trong Phật giáo.
Vả lại, theo Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa,
khi muốn cứu vớt hoặc giác ngộ cho chúng sanh,
Quán Thế Âm Bồ Tát có thể hóa hiện thành 32 sắc
tướng như Phật, Bồ Tát, Càn-thát-bà, thiện nam,
tín nữ, v.v. tùy theo đối tượng để cứu giúp
chúng sanh.
Theo
quan niệm người Trung Quốc, Quán Thế Âm Bồ Tát
ngự tại Phổ Đà Sơn, đó là một trong Tứ Đại Danh
Sơn (bốn trú xứ của bốn vị Đại Bồ Tát của
Phật giáo Trung Quốc). Tại Việt Nam và Trung
Quốc, các thuyền nhân, ngư dân thường cầu nguyện
Bồ Tát Quán Thế Âm để được
thông suốt,
bình an trong các
chuyến hải hành. Vì thế Quán Thế Âm Bồ Tát còn
có biệt hiệu là "Quán Âm Nam Hải".

MỘT VÀI TRUYỀN
THUYẾT DÂN GIAN
Có rất
nhiều
truyền thuyết
về Bồ Tát Quán Thế Âm. Theo một huyền thoại
Trung Quốc thì Quán Thế Âm là con gái thứ ba của
một nhà vua. Lớn lên, mặc dù vua cha ngăn cản
nhưng công chúa quyết đi tu. Cuối cùng vua nổi
giận, sai đem giết nàng. Diêm vương đưa nàng vào
địa ngục, ở đó công chúa biến địa ngục thành
Tịnh Độ, cứu giúp người hoạn nạn. Diêm Vương thả
nàng ra và công chúa tái sanh lại trên núi Phổ
Đà biển Đông và trở thành người cứu độ cho ngư
dân. Đến khi vua cha bị bệnh nặng, nàng cắt thịt
đắp lên chỗ bệnh. Nhà vua khỏi bệnh và nhớ ơn,
cho tạc tượng nàng. Tương truyền rằng, vì hiểu
lầm ý của nhà vua mà người ta tạc nên bức tượng
nghìn tay nghìn mắt, được lưu truyền đến ngày
nay.
Một
truyền
thuyết khác
được
phổ biến tại Việt Nam là
sự tích
Quan
Âm Thị Kính,
kể rằng Ngài đã đầu thai và tu hành 9 kiếp.
Trong kiếp thứ 10, ngài được đầu thai làm một
con gái trong một gia đình họ Mãng ở nước Cao Ly
(bán đảo Triều Tiên ngày nay), và được đặt tên
là Thị Kính.
Thị
Kính được gả cho Thiện Sĩ của gia đình họ Sùng.
Khi ở nhà chồng, Thị Kính giữ phận làm dâu, tôn
kính phụng dưỡng cha mẹ chồng. Một hôm, khi
Thiện Sĩ đang ngủ sau khi đọc sách, Thị Kính
thấy ở cằm của chồng mình có mọc sợi râu. Thị
Kính đang may vá nên cầm một con dao nhíp trong
tay và sẵn tiện cắt đứt sợi râu. Thiện Sĩ giật
mình thức giấc, thấy vợ đang cầm dao gần cổ,
tưởng rằng Thị Kính đang định giết mình nên la
lên.
Sau
khi Thị Kính kể lể đầu đuôi, cha mẹ chồng vẫn
ngờ rằng Thị Kính có âm mưu giết chồng, bắt
Thiện Sĩ phải bỏ vợ. Thị Kính phải trở về nhà
cha mẹ mình, quyết định xuất gia. Bà cải trang
thành nam giới, trốn nhà đến chùa xin đi tu, lấy
pháp danh là Kỉnh Tâm.
Tuy là
gái giả trai, Kỉnh Tâm có tướng mạo đẹp đẽ, cho
nên có nhiều tín nữ ngưỡng mộ. Thị Mầu, con của
một trưởng giả giàu có, trêu ghẹo Kỉnh Tâm,
nhưng không được đáp lại. Thị Mầu lại có thai
với người đầy tớ. Khi bị tra hỏi, Thị Mầu khai
rằng Kỉnh Tâm là cha của thai nhi. Kỉnh Tâm tuy
kêu oan nhưng không dám tiết lộ ra bí mật của
mình. Sau đó, Kỉnh Tâm phải tu ở ngoài cổng chùa
để chùa không bị tiếng tăm.
Thị
Mầu sanh ra được một đứa con trai, đem đứa nhỏ
đến chùa gửi cho Kỉnh Tâm. Kỉnh Tâm vì thương
người, nhận đứa trẻ vào nuôi dưỡng. Khi đứa trẻ
lên 3 tuổi thì Kỉnh Tâm bị bệnh nặng. Biết mình
sắp chết, Kỉnh Tâm dặn dò đứa trẻ đưa thư cho sư
cụ của chùa và cho ông bà họ Mãng. Sau khi đọc
rõ sự tình, sư cụ kêu người khám xét thi thể
Kỉnh Tâm, mới biết rằng Kỉnh Tâm là gái giả
trai. Thị Mầu xấu hổ, đành phải tự tử. Thiện Sĩ
ăn năn, bèn đi tu, sau này biến thành một con
chim.
Quan
Âm Bồ Tát (Thị Kính sau khi chết) cũng cứu độ
đứa con nuôi, con ruột của Thị Mầu, đem về Nam
Hải, để làm người hầu. Do đó, người ta họa hình
Quán Thế Âm Bồ Tát đội mũ ni xanh, mặc áo tràng
trắng, ngự trên tòa sen, bên tay mặt có con chim
mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, bên dưới có đứa trẻ bận
khôi giáp chắp tay đứng hầu.
Truyền
thuyết Quan Âm Diệu Thiện
được truyền miệng trong dân gian Việt Nam qua
lối truyện thơ. Bài thơ viết theo thể lục bát
nói về một vị công chúa đã xuất gia ở Việt Nam
để độ hoá cho vua cha có nhiều tội ác. Sự tích
này cũng có một dị bản lưu hành ở Trung Hoa.
Vị
công chúa này, nguyên ở nước Hùng Lâm thuộc Ấn
Độ, là người con gái thứ ba của một vị vua.
Trước khi sanh công chúa Diệu Thiện thì nhà vua
rất mong có hoàng tử nên đã cầu xin rất nhiều
nhưng đứa con chào đời lại là một công chúa.
Điều này đã làm cho nhà vua sanh lòng oán hận.
Khác
hẳn hai người chị, nàng công chúa này lớn lên
chỉ say mê kinh kệ và có lòng kính ngưỡng Tam
Bảo. Vì cự tuyệt việc lấy chồng nên cô bị giam
hãm phía sau hoàng cung. Không thuyết phục được
con mình hoàn tục, vua giả vờ cho phép con tu ở
chùa Bạch Tước rồi ngầm ra lệnh cho các sư sãi
phải tìm cách thuyết phục cho công chúa hoàn
tục. Nếu không sẽ giết hết các sư sãi trong
chùa. Nhưng mọi cách đều không lung lạc được ý
quyết của công chúa.
Giận
con, vua ra lệnh đốt chùa để giết cô công chúa
nhưng trời bỗng có mưa dập tắt lửa. Chưa hết
giận, vua bèn hạ lệnh xử chém, thì trời bỗng
giông tố, tạo ra sét đánh văng búa của đao phủ.
Vua tức giận ra lệnh xử giảo công chúa nhưng
ngay lúc đó xuất hiện một con cọp trắng xông ra
cõng công chúa mang đến chùa Hương. Diệu Thiện
tu hành ở đó và cảm hoá được muông thú.
Trong
khi đó, vua trong triều đột nhiên bị chứng bệnh
hủi không chữa được, dần dần hai bàn tay bị rơi
rụng và mắt trở nên mù. Công chúa tu đã đến kỳ
đắc đạo trở về thăm phụ thân và đã hy sanh hai
mắt cùng hai tay để cho cha. Sau đó công chúa
nhập Niết Bàn và cứu độ cha mẹ và hai chị cùng
thành Phật.
Truyền
thuyết này chủ yếu đề cao hai đặc tính của Diệu
Thiện, đó là “Nhân” và “Hiếu”. Với
trí huệ và giới hạnh thì hiếu có thể độ giúp cứu
thoát được cha mẹ mình, cùng như nhân có thể độ
giúp nhiều người thoát vòng mê lầm trở về với
trí huệ.
Phật Giáo Đại Chúng
tổng hợp & biên tập
Hình ảnh Lễ Hội Quán Thế Âm 2011 tại Chùa Việt
Nam - Texas, Hoa Kỳ

Audio
Xưng niệm Thánh hiệu Quán Thế Âm Bồ
Tát (mp3)

Tôn tượng Quán Âm Nam Hải tại Phổ Đà Sơn - Trung
Quốc
|