Xuân Là Xuân Khắp Mọi
Nhà...
Nguyên Minh
Mùa
Xuân có lẽ là một trong những món quà tuyệt vời
nhất mà tạo hóa dành ban cho muôn loài một cách
hoàn toàn bình đẳng. Vì thế, việc khám phá ra
mùa xuân trong chu kỳ vận chuyển của vũ trụ phải
là một trong những khám phá vĩ đại có ý nghĩa
nhất của con người.
Nhận
biết được mùa xuân cũng đồng nghĩa với việc nhận
biết được chu kỳ vận hành của thời tiết trong
năm, và cũng đồng nghĩa với việc sáng chế ra
lịch pháp để tính toán thời gian trong đời sống.
Cứ
nghĩ đến sự đa dạng của muôn loài động thực vật
trên khắp hành tinh này, mỗi loài đều có một đặc
tính sinh trưởng riêng, nhưng tất cả đều chịu sự
chi phối chung của cái chu kỳ 12 tháng trở lại
một lần, như vậy cũng đủ để thấy vai trò kỳ diệu
của mùa xuân trong đời sống của muôn vật. Dù là
những loài nhỏ bé như sâu kiến, côn trùng, hay
to lớn như trâu, bò, voi, cọp... dù là những
loài cỏ hoa hoang dại hay những cây kiểng quý
giá được chăm sóc công phu... tất cả đều như
cùng chờ đợi tia nắng xuân ấm áp trở về để
chuyển mình làm nên một điều gì đó trong chu kỳ
sinh trưởng của đời mình.
Khoa
học ngày nay cho biết rằng sự vận hành của bốn
mùa trong năm là do những vị trí và góc độ khác
nhau của trái đất trong chu kỳ xoay quanh mặt
trời và xoay quanh chính nó. Những chi tiết về
điều này đã được biết đến một cách khá cụ thể.
Người ta biết rằng, với kích thước đường kính là
12.756 km (khi đo ở đường xích đạo), quả đất của
chúng ta nằm cách xa mặt trời khoảng 150 triệu
kilomét và liên tục di chuyển theo một quỹ đạo
xoay quanh mặt trời với vận tốc khoảng 107.000
kilomét trong một giờ. Với vận tốc trung bình
này, quả đất hoàn tất một vòng xoay quanh mặt
trời với thời gian là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46
giây, chính là khoảng thời gian của một năm mà
chúng ta tính tròn là 365 ngày.
Và vì
quỹ đạo này không phải là một vòng tròn tuyệt
đối, nên có những lúc chúng ta đến gần mặt trời
hơn, với khoảng cách chỉ còn chừng 147 triệu
kilomét, và có những lúc cách xa hơn, với khoảng
cách lên đến 152 triệu kilomét. Như vậy, chúng
ta thấy rằng điều tất yếu là khi đến gần mặt
trời hơn thì quả đất sẽ nóng hơn vì nhận được
nhiều nhiệt lượng hơn, và ngược lại khi cách xa
hơn thì nhiệt độ sẽ thấp hơn.
Ngoài
ra, quả đất cũng tự xoay quanh một trục của
chính nó với thời gian 23 giờ 56 phút 4,1 giây
cho mỗi vòng. Chính thời gian của mỗi vòng xoay
này là một ngày đêm mà chúng ta luôn tính tròn
là 24 giờ. Trục xoay này tạo thành một độ
nghiêng khoảng 23,50 so với mặt phẳng cắt ngang
của quỹ đạo trái đất xoay quanh mặt trời, và do
đó làm cho vị trí của mặt trời vào lúc giữa trưa
có lúc ở cao hơn và có lúc thấp hơn khi ta nhìn
lên từ mặt đất. Điều này tạo thành những thay
đổi về nhiệt độ. Khi tia nắng càng vuông góc với
mặt đất thì nhiệt lượng truyền xuống càng nhiều
hơn, nhiệt độ trở nên cao hơn, và khi độ lệch
của tia nắng càng lớn so với đường vuông góc này
thì nhiệt độ sẽ càng thấp hơn.

Đó là những con số. Chúng ta sẽ không lấy làm lạ
khi với những con số này con người có thể hiểu
được một cách tường tận về sự thay đổi của bốn
mùa. Tuy nhiên, điều kỳ diệu ở đây là những con
số này đã đến khá muộn màng, chỉ trong khoảng
không quá 3 thế kỷ gần đây mà thôi. Nhưng sự
nhận biết về vận hành của bốn mùa thì đã có từ
rất sớm, rất có thể là ngay từ lúc con người bắt
đầu biết trồng trọt để có lương thực tự nuôi
sống. Chỉ bằng vào sự quan sát những thay đổi
được lặp lại có chu kỳ trong năm, người ta đã
đưa ra được những con số và xác định các mốc
thời gian khá chính xác khi so với kết quả tính
toán của khoa học ngày nay. Lấy ví dụ như bằng
sự quan sát chu kỳ lặp lại của những đêm trăng
tròn, người xưa đã tính toán được thời gian của
một tháng âm lịch là khoảng hơn 29 ngày (tháng
thiếu) nhưng chưa đến 30 ngày (tháng đủ). Chu kỳ
này chính là thời gian cần thiết để bề mặt phản
chiếu ánh sáng của mặt trăng được nhìn thấy từ
trái đất trở lại giống hệt như trước đó, và với
kết quả tính toán chính xác của khoa học ngày
nay thì thời gian này là 29 ngày 12 giờ 44 phút.
Nhưng mùa xuân không chỉ đơn giản là một hiện
tượng được tạo thành bởi những thay đổi về thời
tiết, khí hậu... do những nguyên nhân mà chúng
ta vừa mô tả. Hơn thế nữa, mùa xuân là một hiện
tượng gắn liền với sự sống, hay nói chính xác
hơn là sự sinh trưởng của muôn loài. Sẽ không có
mùa xuân nếu không có sự sống trên hành tinh
chúng ta, hay nói đúng hơn là mùa xuân sẽ chẳng
còn có ý nghĩa gì cả nếu không có sự sinh sôi
nảy nở của vạn vật.
Chính vì thế mà từ xưa đến nay hình ảnh mùa xuân
luôn gắn liền với hoa với bướm, với cây cỏ xanh
tươi, với chim hót líu lo hay én liệng giữa trời
xanh. Cái đẹp của mùa xuân không chỉ là sự hài
hòa của những màu sắc hay dáng vẻ trong thiên
nhiên, mà chính là vì nó biểu hiện một sức sống
mạnh mẽ, một sự sinh trưởng của tất cả muôn
loài.
Xuân về chính là lúc khơi dậy sức sống tiềm tàng
trong vạn vật. Những chồi non đang ngủ yên trong
thân cây xù xì già nua kia bỗng nhiên bừng tỉnh
giấc, phá vỡ lớp vỏ cây khô cằn để nhú mình nhô
ra hé cười cùng làn gió xuân vừa thoảng đến.
Trên mặt đất cằn cỗi qua mấy tháng đông dài lạnh
giá, những lá cỏ li ti xanh nõn cũng xôn xao
trỗi dậy, rủ nhau đan kín mặt đất nhấp nhô cho
đến tận chân trời... Và kìa, những thân mai già
chỉ cách đây có mấy hôm thôi còn trơ trụi những
cành gầy guộc khẳng khiu mà nay đã phủ đầy những
búp xanh căng tròn mũm mĩm, nổi bật lên là những
cánh hoa vàng mảnh rực sáng như đã thấm nhuần
tia nắng xuân ấm áp... Cho đến những cánh bướm
đủ màu kia hôm nay dường như cũng nhộn nhịp hơn,
đang lượn múa nhanh hơn giữa những đóa hoa dại
đủ màu ven suối...
Chính cái sức sống mãnh liệt của vạn vật luôn
bừng lên mỗi độ xuân về đã làm cho mùa xuân bao
giờ cũng mới mẻ và tươi thắm. Mùa xuân gắn liền
với sự sống. Cho dù đó là sự sống nhỏ nhoi của
những loài côn trùng bạn chưa từng biết qua tên
gọi, hay sự sống trầm hùng của những thân cây cổ
thụ đã trải hàng thế kỷ... Tất cả đều như bừng
dậy dưới nắng xuân, như muốn bộc lộ sức sống của
mình, khẳng định sự hiện hữu trong trời đất!
Vì gắn liền với sự sống nên mùa xuân từ lâu đã
trở thành quen thuộc và phổ biến trong khắp mọi
nền văn minh trên thế giới. Ở những vùng khác
nhau, người ta có thể không nói cùng một ngôn
ngữ, không cùng chung những tập tục, nghi lễ
giống nhau, nhưng bao giờ cũng có những cảm nhận
tương đồng về mùa xuân. Điều đó chính là vì cho
dù ở bất cứ nơi đâu thì sự sống cũng vẫn là như
nhau.
Nói đến sự gắn liền giữa mùa xuân và sự sống của
muôn loài, tôi chợt liên tưởng đến những điều
phi lý mà con người chúng ta đã và đang áp đặt
lên loài vật. Trong khi muôn loài nô nức đón
xuân thì chúng ta lại cướp lấy sự sống của biết
bao nhiêu sinh vật để đổi lấy sự vui thích cho
riêng mình. Chỉ cần dạo qua một vòng chợ Tết ở
bất cứ nơi đâu, bạn cũng sẽ dễ dàng nhận thấy có
vô số con vật đang chờ chết để phục vụ cho những
bữa ăn của chúng ta trong dịp đón xuân về. Trong
đêm giao thừa, khi hầu hết mọi gia đình đều cùng
nhau đoàn tụ để đón chờ phút thiêng liêng giao
hòa giữa năm cũ và năm mới, thì khắp mọi nơi
trong thôn xóm vang lên tiếng kêu rú thảm thiết
của những con vật bị giết hại. Thật vô lý khi
những niềm vui và nỗi đau buồn lại đan xen nhau
một cách lạnh lùng đến vô cảm, bởi hầu như không
mấy người khi kết liễu mạng sống của một con vật
mà có được chút động tâm thương xót!
Không ít người có thể sẽ cho những suy nghĩ như
thế này là kỳ lạ, thậm chí là gàn dở, lập dị, vì
quả thật chúng có vẻ như... « không giống ai »
khi đặt vào bối cảnh chung của đa số những người
chấp nhận việc giết hại. Tuy nhiên, chúng ta lại
không có bất cứ một lập luận vững chãi, thuyết
phục nào để bảo vệ cho sự nhẫn tâm không thể phủ
nhận được này.
Nếu nói rằng chúng ta có quyền giết hại loài vật
để phục vụ đời sống của mình bởi vì chúng ta có
sức mạnh hơn, có thể khống chế được chúng, thì
điều đó sẽ đi ngược lại với những học thuyết đạo
đức, nhân nghĩa do chính con người chúng ta đặt
ra và giảng dạy cho nhau.
Nếu nói rằng loài vật không phải là đối tượng
nằm trong phạm trù của những học thuyết ấy, thì
điều đó sẽ hoàn toàn không phù hợp với những suy
nghĩ, nhận thức của chính con người. Ngay từ
những truyền thuyết từ xa xưa, chúng ta đã thấy
xuất hiện vô số những con vật được nhân hóa với
tình cảm và suy nghĩ không khác với con người.
Thậm chí trong đó còn có không ít những con vật
đã trở thành biểu tượng thiêng liêng được chúng
ta tôn kính. Điều đó nói lên rằng chúng ta chưa
bao giờ thực sự xem loài vật chỉ là để giết
thịt.

Trong một chuyến đi Huế, tôi có đến thăm mộ cụ
Phan Bội Châu và đã hết sức xúc động khi được
nghe kể về con chó của cụ. Sau khi cụ mất, nó đã
bỏ ăn cho đến chết và được an táng ngay bên cạnh
phần mộ của cụ Phan, có dựng bia đá hẳn hòi.
Trong cuộc sống hiện nay, chúng ta cũng luôn dễ
dàng tìm thấy những con vật có gắn bó tình cảm
với con người, thậm chí chúng còn giúp mang lại
niềm vui sống cho rất nhiều người bằng vào tình
cảm thắm thiết đó.
Hơn thế nữa, việc loài vật có tri giác và tình
cảm không khác chúng ta là điều không thể phủ
nhận được. Vì thế, nếu phải làm cho chúng đau
đớn và cướp đi mạng sống của chúng, thì chắc
chắn một điều là tự sâu thẳm trong lòng ta không
thể tránh khỏi sự ray rức, hối hận. Chỉ tiếc là
những cảm giác tự nhiên rất thật đó lại bị chính
chúng ta làm cho chai lỳ đi qua nhiều lần lặp
lại sự giết hại. Một người bạn của tôi vào thời
niên thiếu đã mất ngủ ba đêm liền chỉ vì vô tình
ném viên gạch làm chết thảm một chú chim bồ câu.
Chú chim này bị vỡ đầu, máu me bê bết nhưng vẫn
còn giãy giụa khá lâu trên sân trước khi chết
hẳn. Người bạn ấy nói với tôi rằng, cứ nhắm mắt
là anh ta lại thấy cái đầu bê bết máu của con
chim, thế là không sao ngủ được. Vậy mà sau này
gặp lại, tôi thấy anh ta cắt cổ gà rất thạo, còn
dám thọc cổ heo nữa, mà không lần nào phải mất
ngủ như xưa!
Nhiều người nói với tôi rằng họ rất muốn từ bỏ
việc ăn thịt để không phải giết hại loài vật
nữa, nhưng lại sợ rằng bữa ăn của mình sẽ không
cung cấp đủ dinh dưỡng cho một cuộc sống khỏe
mạnh. Thật ra, đây không phải là một lý do
thuyết phục, bởi vì khoa học dinh dưỡng ngày nay
đã giải tỏa hoàn toàn sự lo sợ đó. Hàng triệu
người châu Âu ngày nay chuyển sang ăn chay không
phải vì lý do tín ngưỡng, mà chính là vì bác sĩ
của họ đã khuyên như thế để bảo vệ sức khỏe
trong một môi trường ngày càng ô nhiễm nặng nề
hơn.
Chúng ta hãy thử làm một so sánh nhỏ. Trong 100
gram thịt heo có 21,7 gram chất đạm (protein),
nhưng trong 100 gram đậu phộng có đến 25 gram
chất đạm, còn trong 100 gram đậu nành lại có đến
35 gram chất đạm. Xem ra thì lý do dinh dưỡng
quả thật là không mấy thuyết phục. Hơn thế nữa,
việc hấp thụ chất đạm thực vật còn có lợi cho
sức khỏe hơn là chất đạm từ động vật, vốn còn là
nguyên nhân thúc đẩy chứng ung thư, một căn bệnh
cho đến nay hầu như vẫn còn là bất trị. Vì thế,
lý do cuối cùng để giải thích cho việc ăn thịt
và có lẽ cũng là lý do phù hợp với nhiều người
nhất chính là vấn đề khẩu vị, hay nói chính xác
hơn là thói quen ăn uống. Bởi vì khẩu vị của
chúng ta xét cho cùng cũng chỉ là một thói quen
lâu ngày mà thôi. Trong khoảng 100 món ăn thông
dụng của đa số chúng ta ngày nay thì e rằng đã
có đến 99 món được nấu cùng thịt cá. Nếu phải
tức thời loại bỏ thịt cá ra khỏi thực đơn mỗi
ngày, chắc chắn sẽ có rất nhiều người cảm
thấy... trống trải và nhạt nhẽo đến không sao
chịu được. Cho nên, những khó khăn trong việc từ
bỏ sự giết hại xem ra không phụ thuộc vào ngoại
cảnh mà chính là nằm trong yếu tố tự thân của
mỗi người.
Con người vốn luôn tự hào là thông minh và dũng
cảm, có thể khuất phục được cả muôn loài và vượt
qua được nhiều thử thách khó khăn trong môi
trường sống, nhưng khi phải đối mặt với chính
mình lại thường trở nên yếu đuối đến mức kỳ lạ.
Không phải vô cớ mà cổ nhân đã từng nói: “Thắng
được người khác là có trí, thắng được chính mình
mới là mạnh mẽ.” (Thắng nhân giả trí, tự
thắng giả cường.) “Tự thắng” hay “thắng được
chính mình” là vượt qua những khó khăn của tự
thân để từ bỏ một thói quen nào đó mà mình biết
chắc là không tốt. Những ai đã từng nghe qua
chuyện kể về những người cai nghiện sẽ có thể
hiểu được phần nào những khó khăn loại này. Vì
thế, nếu ai có thể thực sự chiến thắng để từ bỏ
được thói quen xấu của chính mình, người đó quả
thật rất xứng đáng được xem là mạnh mẽ.
Điều này giải thích vì sao việc từ bỏ sự giết
hại lại khó khăn đến thế, cho dù hầu hết chúng
ta đều không chính thức tán thành giết hại. Cách
đây hơn 25 thế kỷ, đức Phật đã đề xướng một nếp
sống theo nguyên tắc “bất hại”.(1) Ngài dạy
những đệ tử của mình nên từ bỏ việc ăn những
thức ăn có được bằng cách giết hại loài vật, và
sống một cuộc sống không gây tổn hại cho bất cứ
sinh vật nào cùng hiện hữu quanh mình.(2) Cho dù
tất cả những ai đã nghe qua lời dạy của Ngài đều
phải lấy làm kính phục và tin nhận, nhưng số
người có thể thực sự làm theo đúng như vậy lại
không nhiều lắm. Và cho dù tất cả những ai đã
làm theo lời dạy của Ngài đều cảm nhận được sự
an vui, lợi ích trong cuộc sống, nhưng số người
có thể học hỏi làm theo họ vẫn còn hạn chế.
Nói chung,
người ta có thể dễ dàng nhận ra được tính
chất hợp lý và lợi ích của một nếp sống như thế,
và bất cứ ai có thể sống như vậy đều sẽ có được
sự an lạc trong tự thân cùng với sự kính trọng
của mọi người khác, nhưng tự mình có thể sống
theo một nếp sống như thế lại là một chuyện hoàn
toàn khác, bởi nó đòi hỏi bản thân mỗi người
luôn phải vượt qua được những khó khăn để từ bỏ
mọi sai lầm trong nếp sống cũ trước đây của
chính mình.
Mùa xuân đang trở về cùng tất cả chúng ta. Cỏ
cây thay lá xanh tươi và vạn vật đua nhau sinh
sôi nảy nở. Nắng xuân ấm áp mang niềm vui đến
với muôn loài một cách bình đẳng không phân
biệt. Nhà nhà cùng nhộn nhịp đón xuân. Người
người cùng rộn rã hòa theo nhịp xuân của toàn vũ
trụ. Trong không khí vui tươi đang hòa quyện
cùng gió xuân lan tỏa khắp nơi nơi, cảnh giết
chóc đau đớn quả thật là những nốt nhạc hoàn
toàn lạc điệu trong khúc nhạc xuân, là những gam
màu buồn tẻ không hòa hợp trong bức tranh xuân.
Thật đáng buồn thay nếu chúng ta không nhận ra
được những điều ấy, bởi vì chắc chắn là chúng sẽ
làm cho niềm vui xuân của chúng ta mãi mãi không
trọn vẹn.
Trong Kinh Lăng Nghiêm, quyển 8, đức Phật dạy
rằng mọi loài hữu tình sau khi chết đều trải qua
một giai đoạn mang thân trung ấm, rồi tùy theo
nghiệp lực đã tạo mà sau đó mới thọ sinh vào một
đời sống mới. Giai đoạn mang thân trung ấm này
có thể khác nhau ở mỗi chúng sinh, nhưng đa số
là kéo dài trong khoảng 49 ngày.(3) Theo đó mà
nói thì thân trung ấm của những sinh mạng bị
chúng ta giết hại chắc hẳn cũng sẽ không vui vẻ
gì trong thời gian này.

Khoa học ngày nay đã phát hiện ra một điều lý
thú rất đáng cho chúng ta suy ngẫm, đó là sự gia
tăng đột ngột nồng độ các chất có hại hay độc tố
trong thịt của con vật bị giết hại khi nó phải
giãy chết trong đau đớn. Hàm lượng độc tố này
khi đi vào cơ thể chúng ta qua các món ăn được
nấu từ thịt con vật sẽ gây ra sự bất ổn cho cơ
thể hoặc thúc đẩy sự phát triển nhanh của nhiều
căn bệnh hiểm nghèo. Từ lâu người ta đã biết đến
khả năng tương tự ở một số loài thực vật. Chúng
có thể tiết ra độc tố hoặc các chất có vị rất
đắng để chống lại sự tấn công của côn trùng vào
thân cây. Tuy nhiên, việc những con vật bị giết
có thể gây hại cho người ăn thịt chúng bằng cách
này chỉ mới được khám phá vào thời gian gần đây
mà thôi. Song song với những phát hiện loại này
là hàng loạt bằng chứng cho thấy việc sử dụng
thịt động vật làm thức ăn hoàn toàn không phải
giải pháp tối ưu cho sức khỏe con người như
trước đây chúng ta lầm tưởng, mà ngược lại còn
là nguyên nhân chủ yếu gây ra rất nhiều căn bệnh
hiểm nghèo như bệnh ung thư, bệnh tim mạch,
huyết áp... Đa số các bác sĩ phương Tây ngày nay
đã chú trọng rất nhiều đến chế độ ăn uống của
bệnh nhân chứ không chỉ dựa vào khả năng điều
trị bằng thuốc men, và hầu hết đều khuyên chúng
ta nên giảm lượng thịt cá, gia tăng các món trái
cây, rau củ, ngũ cốc trong thực đơn hằng ngày.
Như đã nói, việc từ bỏ thói quen ăn thịt thật ra
không phải là một việc dễ dàng. Hầu hết chúng ta
đều vấp phải những khó khăn khi muốn thực hiện
điều này. Những bữa ăn chay đầu tiên nối tiếp
nhau thường mang lại cảm giác hết sức nhạt nhẽo,
khó nuốt... Bởi vì chúng ta đã quá quen thuộc
với mùi vị của thịt cá. Tuy nhiên, chúng ta vẫn
có thể dùng lý trí để biết rằng đó chẳng qua chỉ
là vấn đề thói quen được huân tập lâu ngày mà
thôi. Hơn thế nữa, chúng ta có thể và nên dành
thời gian để thực hiện việc này một cách chậm
rãi, đủ để cho cơ thể và nhất là khẩu vị của
chúng ta có điều kiện thay đổi thích nghi dần.
Đa số Phật tử hiện nay đều duy trì việc ăn chay
vào ngày mồng một Tết. Bởi đây vừa là ngày đầu
tháng Giêng, vừa là ngày vía của đức Phật Di
Lặc. Chỉ riêng việc ăn chay “một ngày” này của
hàng triệu Phật tử chúng ta cũng có thể hình
dung ra được đã giúp giảm đi biết bao nhiêu sinh
mạng bị giết hại. Điều đó thật vô cùng đáng quý,
và nếu chúng ta làm được như vậy, cũng có thể
xem là một món quà xuân rất có ý nghĩa để góp
phần vào việc tôn trọng sự sống của muôn loài.
Và nếu chúng ta có thể tập thói quen ăn chay đều
đặn mỗi tháng 2 ngày, vào các ngày đầu tháng
(mồng Một) và giữa tháng (ngày Rằm), điều này sẽ
có ý nghĩa nhắc nhở ta về mục tiêu từ bỏ sự giết
hại. Hơn thế nữa, nó giúp chúng ta làm quen dần
với những bữa ăn chay, giúp ta có thể ăn ngon
miệng hơn ngay cả khi không dùng đến các món
thịt cá. Thật ra, một số người còn cảm thấy rất
ngon miệng khi thỉnh thoảng được đổi món, thưởng
thức những bữa chay thịnh soạn nấu nướng bởi
những người đầu bếp khéo léo.
Những ngày chay trong mỗi tháng của chúng ta có
thể được tăng dần lên 4 ngày, 6 ngày hoặc 10
ngày. Đây đều là những bước tiến rất quan trọng,
vì nó thể hiện tinh thần hướng thiện và nỗ lực
từ bỏ những thói quen xấu. Song song theo đó,
điều chắc chắn là chúng ta sẽ có được sự cải
thiện đáng kể cả về thể chất lẫn tinh thần. Sẽ
không còn nữa cảm giác nặng nề khó chịu hoặc
nóng gắt cổ họng sau những bữa ăn căng bụng vì
thịt cá. Những món ăn được chế biến từ rau trái
bao giờ cũng mang lại cảm giác nhẹ nhàng, dễ
chịu vì chúng dễ tiêu hóa và chứa nhiều loại
vitamin cần thiết cho cơ thể. Điều này đã được
xác nhận bởi các nghiên cứu khoa học nghiêm túc
chứ không phải là nhận xét chủ quan của bất cứ
ai. Vì thế, chắc chắn là mỗi chúng ta đều có thể
dễ dàng tự cảm nhận được.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên cố gắng hạn chế tối
đa việc trực tiếp giết hại sinh vật. Trong thực
tế, cứ mỗi lần tự tay giết chết một con vật là
bạn đang làm tổn hại đến lòng từ bi của chính
mình. Chính vì thế mà sau nhiều lần lặp lại việc
giết hại, bạn sẽ trở nên chai lỳ, không còn xúc
cảm trước những đau đớn mà con vật bị giết đang
phải chịu đựng. Vì thế, ngay cả khi bạn chưa thể
từ bỏ được việc ăn thịt cá thì cũng nên sớm từ
bỏ việc trực tiếp giết hại sinh vật. Điều này sẽ
giúp nuôi dưỡng lòng từ bi trong bạn, khiến bạn
trở nên hiền hòa hơn và do đó mà tâm hồn sẽ được
thanh thản hơn. Cho dù việc mua thịt cá do người
khác giết sẵn cũng là một hành vi gián tiếp giết
hại sinh vật, nhưng vẫn có thể tạm thời xem là
một lựa chọn tốt hơn so với việc tự tay mình
giết hại con vật.
Không một điều gì có thể xem là cố định, bất
biến trong thế gian này. Người tốt có thể trở
thành kẻ xấu, kẻ xấu có thể trở thành người tốt,
tất cả đều phụ thuộc vào những nỗ lực đúng hướng
hoặc buông thả tự thân của mỗi người. Mỗi chúng
ta đều là người duy nhất có quyền lựa chọn cách
sống của riêng mình, và hướng đến sự tốt đẹp như
thế nào chính là do nơi sự sáng suốt phán đoán
bằng trí tuệ của chính ta.
Mùa xuân bao giờ cũng mang lại niềm vui cho khắp
thảy mọi nhà, nhưng có thể tiếp nhận niềm vui đó
một cách trọn vẹn hay không thì điều đó còn tùy
nơi nhận thức và việc làm của mỗi chúng ta. Mùa
xuân luôn gắn liền với sự sống của muôn loài,
niềm vui xuân chính là niềm vui của muôn loài
được tồn tại và phát triển. Nếu chúng ta cứ tiếp
tục gieo rắc sự đau thương chết chóc cho những
sinh vật đang sống quanh ta, thì tự trong sâu
thẳm lòng mình chắc chắn ta sẽ rất khó mà có
được sự bình an thanh thản. Và vì thế cũng khó
lòng hòa nhịp cùng xuân để có được một niềm vui
trọn vẹn!
Nguyên Minh
(theo
Phật Tử Việt Nam)

Chú thích:
1. Bất
hại: Thuật ngữ được dịch từ tiếng Phạn, có
nghĩa là không làm tổn hại đến người khác, vật
khác. Đây là nền tảng đầu tiên của giới không
sát sinh, một trong năm giới căn bản của người
Phật tử tại gia.
2. Xem Kinh
Đại Bát Niết Bàn, Tập 1, trang 357-359, bản dịch
tiếng Việt của Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh
Tiến, NXB Tôn Giáo.
3. Do ý
nghĩa này mà nghi thức cầu siêu cho người chết
thường được tổ chức liên tục trong 7 tuần lễ,
đến tuần cuối cùng, đúng 49 ngày thì làm lễ
chung thất.
|