Nói Mười Không Bằng Làm
Một
Liên Hải
dịch
Thiền sư Đại Từ Hoàn Trung, người Bồ Bản tỉnh Hà
Đông (nay là Sơn Tây), giống như Lục Tổ Huệ Năng,
con nhà họ Lư, không biết 500 năm trước họ có
phải là người một nhà không, nhưng mà 500 năm
sau chắc chắn họ là người một nhà – cùng con nhà
Phật.
Từ
nhỏ xương trên đỉnh đầu Thiền sư Hoàn Trung đã
nhô lên cao thành nửa hình tròn, giống như đảnh
tướng triêu dương dục xuất chỉ có trên tượng
Phật, Bồ tát. Thêm nữa, ngài thông minh sáng
suốt, đĩnh ngộ khác thường, các tiên sinh lớn
tuổi có học vấn đều nói: cậu bé này là người có
lai lịch – ngài đương nhiên là người có lai lịch
- từ trong thai mẹ ra. Nhưng lúc ngài mười mấy
tuổi, mẹ ngài – người sanh ra ngài, nuôi nấng
ngài, cho ngài sanh mạng - bỗng nhiên qua đời.
Thiếu gia họ Lư tuổi nhỏ học Khổng Mạnh, đọc
sách đạt lý, cho nên dựa theo truyền thống lễ
nghi hiếu để của nhà Nho, dựng một am cỏ bên
cạnh mộ phần mẹ, muốn ở đó giữ mộ cho mẹ ba năm.
Chẳng
nghi ngờ gì, cuộc sống nơi ngôi nhà giữ mộ thủ
hiếu vừa lạnh nhạt vừa tịch tĩnh, vừa trầm lắng
vừa lạc lõng. Cảnh tịch liêu, quạnh quẽ này dễ
dàng khiến cho tư tưởng con người đi vào tư duy
thâm sâu. Vì mẫu thân quảy gót về Tây mà thiếu
niên nhà họ Lư đau lòng đoạn tuyệt với dục vọng,
tự nhiên hướng tâm linh của mình vào những câu
hỏi sâu xa: Con người, khi sanh ra từ đâu mà đến?
Khi họ chết sẽ đi về đâu? Trước khi cha mẹ sanh
ra, ta ở đâu? Sau khi mẹ qua đời, mẹ lại đi về
đâu?....
Thiếu
niên họ Lư vô cùng buồn khổ, cậu ngẩng đầu hỏi
trời xanh: Đời Tần trăng sáng, đời Hán sao soi,
vạn cổ vẫn trống không, trạm nhiên tịch mặc;
Sáng nay gió mây, mặt trời, mặt trăng tươi sáng,
vạn cổ vẫn không, trạm nhiên tịch tĩnh. Cậu cúi
đầu hỏi đất, bãi biển nương dâu, biển khô đá nát,
non sông đồi núi vẫn vĩnh hằng; Hoa nở hoa rụng,
mùa xuân tươi tốt, mùa thu khô héo, vạn vật theo
thời mà biến đổi.
Cứ
như vậy, sau ba năm, cuộc sống nơi nhà giữ mộ
kết thúc, thư sinh họ Lư trở thành Tăng nhân
Hoàn Trung – vì tìm tòi chân đế vũ trụ nhân sinh,
ông liền đến chùa Đồng Tử ở Tinh Châu thế phác
xuất gia.
Ngay
lúc Hoàn Trung lần đầu tiên đẩy cánh cửa lớn vào
lầu Tàng kinh, ông bị chấn động sâu sắc: Tam
Tạng (Kinh, Luật, Luận), mười hai bộ kinh - nội
dung của tất cả các kinh giáo chia làm mười hai
loại lớn: 1. Trường Hàng, 2. Trùng Tụng, 3. Cô
Khởi, 4. Nhân Duyên, 5. Bổn Sự, 6. Bổn Sanh, 7.
Vị Tằng Hữu, 8. Thí Dụ, 9. Luận Nghị, 10. Vô Vấn
Tự Thuyết, 11. Phương Quảng, 12. Ký Biệt hoặc
Thọ Ký.
Đường
hoàng hơn 6500 quyển, dạt dào phong phú ức vạn
lời hay, thật là to lớn như đại dương, rộng sâu
như biển cả. Thế là, tiểu Hoàn Trung liền trở
thành con cá nhỏ, mặc sức bơi lội trong biển cả
giáo lý.
Núi
sách không có đường, chăm chỉ là lối đi; biển
học không bờ, siêng năng là thuyền. Hoàn Trung
nhớ kỹ những lời dạy của cổ nhân, với sự siêng
năng mà ông từng có từ thời học kinh điển nhà
Nho. Suốt mấy năm liền ngày nào cũng vậy, chăm
chỉ nghiên cứu kinh Phật, mọi người đều gọi ông
là “Tiểu Tam Tạng”. Nên biết, thông thường chỉ
có những Cao Tăng Ấn Độ thời xưa, rất tinh thông
về Kinh, Luật, Luận mới có thể tôn xưng là Tam
Tạng (chính vì thế, Pháp sư Huyền Trang được
xưng là Đường Tam Tạng – Pháp sư Tam Tạng đời
Đường). Từ đó, có thể thấy, trình độ Phật học
của Hoàn Trung thâm hậu như thế nào, mọi người
tôn trọng ông như thế nào.
Một
hôm, trong chùa có một Thiền tăng mới hành cước
đến. Bước đi của ông như mây trắng lướt qua núi
sông hang cốc, rất phóng khoáng tự nhiên, cử chỉ
của ông như tùng xanh đứng lặng trên đỉnh núi
cao, cốt cách phong thái vô cùng kiên cường bất
khuất. Hoàn Trung thấy phong thái khí phách của
ông vô cùng khâm phục, muốn tìm cách tận dụng cơ
hội để gần gũi. Một hôm, Hoàn Trung mời ông uống
trà trong lầu Tàng kinh, trong lời ăn tiếng nói
“Tiểu Tam Tạng” Hoàn Trung không nén được tình
cảm, biểu lộ sự đắc ý và cao ngạo rằng mình là
kẻ Kinh Luận đầy bụng. Thiền tăng bắt một con
mọt sách mập tròn trong kinh sách cười nói với
nó: “Ái
chà, nhóc con nhà ngươi cũng ăn đầy bụng kinh
sách, phải chăng cũng có thể gọi là “Tiểu Tam
Tạng”.
Hoàn
Trung tự nhiên bối rối bất mãn. Thiền tăng cũng
mặc, tiếp tục nói với con mọt nhỏ: “Ngươi
thật tốt số, những thứ ăn vào trong bụng toàn là
kinh Phật, cho nên suốt ngày cao ngạo ngông
nghênh, khoe khoang khoác lác. Thế mà lại được
người ta tôn trọng. Những con mọt sách khác lại
không may mắn như ngươi, nó ăn đầy bụng tráp
sách bí mật của võ công, thì không thể suốt đời
cho rằng công phu của mình là số một trong thiên
hạ. Nó ra ngoài đi giang hồ, gặp phải con ruồi,
con ruồi khinh thường nó, gặp phải con sâu hôi,
sâu hôi áp bức nó, ngay cả con bọ hung đen sì
cũng dùng quyền tấu chẳng ra gì làm cho nó mũi
tím mặt sưng. Nó rất phẫn nộ, tìm đến chủ nhân
của cái tráp võ công bí mật, oán trách rằng:
“Trong bụng tôi chứa đầy các chiêu thức võ công,
mỗi chiêu đều là thiên hạ vô địch: mà các con
trùng phá hoại kia chỉ đưa ra những chiêu thức
rất thông thường, nhưng tại sao tôi lại luôn bị
chúng đánh cho không còn thấy đường sá gì cả?
Chủ nhân cười nói: “Người ăn mà không tiêu,
chiêu thức có nhiều đến đâu, vi diệu đến nhường
nào cũng chẳng ích gì?”
Mặc
dù Thiền tăng chẳng nói câu nào đến Hoàn Trung,
nhưng ông ta dường như sét đánh bên tai, tâm hồn
chấn động run rẩy. Đúng vậy, cũng như con mọt
sách kia, Hoàn Trung cũng đầy bụng Kinh Luận
nhưng mỗi khi phiền não nổi lên, thì chẳng áp
dụng được gì cả. Đạo lý của Phật học ngươi đều
hiểu nhưng mỗi lúc đến gần với nghịch cảnh,
phiền muộn, trong lòng ngươi đều không thể tự
chủ, cứ để cho nó trôi theo. Đợi đến lúc tỉnh
táo, đến lúc hối hận, rằm tháng giêng mới dán
thần cửa thì đã muộn rồi!
Tổ sư
Thiền tông đem tình huống nầy nói thành “Tặc Hậu
Trương Cung” – cường đạo đánh bạn đã chạy xa
rồi, bạn mới nhớ đến dây cung mang trên người!
Nói
được ngàn dặm, không bằng đi được một bước.
Hoàn
Trung như vừa tỉnh mộng, cảm kích dập đầu đảnh
lễ Thiền tăng. Nhưng lúc ông ta ngẩng đầu lên,
Thiền tăng đã nhẹ nhàng ra đi, không còn thấy
tung tích. Ngoài lầu Tàng kinh, có một giọng
ngâm tụng nhẹ nhàng truyền đến: “Núi Bách
Trượng, non Bách Trượng, dưới núi Bách Trượng có
thiền Bách Trượng… Tùng lâm từ sau Bách Trượng,
gió qua cỏ rạp thiên hạ yên”.
Đương
thời đệ tử lớn của Mã Tổ Đạo Nhất là Đại sư Hoài
Nhượng, xuất thế hoằng thiền ở núi Bách Trượng.
Câu nói của Ngài “Một ngày không làm một ngày
không ăn” chấn động từ vạn cổ cho đến ngày
nay, trải qua ngàn năm mà như mới. Hoàn Trung
mang giày cỏ, xách gậy trúc, đội nón mang túi
hành lý đi thẳng đến Giang Tây.
Trên
núi Bách Trượng không có kinh sách, cũng không
nói về Thiền, thậm chí ngay cả đại điện, tượng
Phật cũng không có, có chăng chỉ mỗi ngày toàn
tâm toàn lực lao động. Nhưng mà, chính ngay
trong lúc toàn tâm toàn ý lao động đó, Hoàn
Trung hoát nhiên ngộ thấu thiền cơ, đạt được tâm
ấn của Đại sư Bách Trượng!
Ông
như đám mây trắng nhẹ nhàng, nhẹ nhàng mà đi,
đáp xuống đỉnh Nam Nhạc Hằng Sơn, dựng một mái
am nhỏ.
Một
hôm, có một Đại tông sư lên núi – Sư thúc của
Hoàn Trung – Nam Tuyền Phổ Nguyện. Nam Tuyền
muốn dìu dắt, khen thưởng đề bạt hậu bối một
phen - sự dìu dắt của Thiền sư chính là khảo
nghiệm nghiêm ngặt. Thiền sư Nam Tuyền hỏi ông:
“Thế nào là chủ nhân trong am?”
Chủ
trong am? Chủ trong am cỏ không phải chính là
Hoàn Trung sao? Nếu bạn trả lời như thế, bảo đảm
sẽ bị ăn đòn của Nam Nhạc. Vì thế, Thiền sư Hoàn
Trung giống như bị oan uổng gì, la lên: “Trời
xanh, trời xanh!”.
Thiền
sư Nam Tuyền vẫn chưa buông tha, hỏi tiếp: “Tạm
thời đặt trời xanh qua một bên đi, cái gì là chủ
trong am?”
Thiền
sư Hoàn Trung không khách khí nữa, ngược lại còn
mắng Sư thúc: “Biết tức là biết, không cần
phải lải nhải, lải nhải!”.
Thiền
sư Nam Tuyền biết người cháu này đã triệt ngộ.
Sau
đó, Thiền sư Hoàn Trung đến Hàng Châu trú trì
tại núi Đại Từ, sử gọi là “Đại Từ Hoàn Trung”.
Thế nhưng, Ngài tuy làm Phương trượng nhưng
không nói Thiền.
Một
hôm, các đệ tử vây chặt ngài đưa lên pháp đường,
thỉnh ngài lên pháp toà cao. Ngài đành phải mở
lời: “Sơn Tăng ta không biết giải đáp những
câu hỏi về Thiền, về Phật gì cả, ta chỉ biết
khám bệnh”. Một đệ tử từ trong chúng bước
ra, vừa muốn nói điều gì, ngài lập tức xuống
khỏi pháp toà, tự về Phương trượng.
Đệ tử
của Thiền sư Nam Tuyền là Triệu Châu đến thăm,
hỏi Ngài: “Bát Nhã (Đại trí tuệ giải thoát)
lấy gì làm thể?”. Nói ‘thể’ và ‘dụng’ là một
thuật ngữ Phật giáo thường dùng, chỉ cho thể
tánh và tác dụng của vạn sự vạn vật. Thể tánh vô
hình vô tướng, chỉ có thể từ trong những tác
dụng mà thể hiện ra; mà rời thể tánh tức không
có diệu dụng gì. Câu trả lời của Đại Từ Hoàn
Trung vẫn là: “Bát Nhã lấy gì làm thể?”.
Triệu Châu vừa cười ha hả vừa ra khỏi Thiền
trượng.
Hôm
sau, ngài Triệu Châu đang quét rác ngoài sân,
Đại Từ Hoàn Trung hỏi ngược lại Ngài: “Bát
Nhã lấy gì làm thể?”. Ngài Triệu Châu bỏ
chổi xuống, vỗ tay cười lớn – hành động bỏ chổi
xuống và vỗ tay của ngài cho đến cười lớn đều là
sự biểu hiện để thấy tánh của Bát Nhã. Đại Từ
Hoàn Trung hiểu được, cười, trở về Phương
trượng.
Một
Thiền Tăng muốn ra ngoài hành cước, đến Phương
trượng cáo biệt đường đầu Đại Hoà thượng. Thiền
sư Đại Từ Hoàn Trung hỏi thiền tăng đi đâu?
Thiền tăng trả lời: “Đi Giang Tây”. Giang
Tây là nơi Thiền tông đang phát triển mạnh mẽ,
sư ông Mã Tổ, Sư phụ Bách Trượng của Đại Từ đều
đã từng hoằng dương Thiền pháp ở đó. Thiền sư
Đại Từ Hoàn Trung quay đầu lại nói: “Ái chà,
ngươi muốn tới Giang Tây hả? Tốt lắm, phiền
ngươi giúp ta một việc có được không?”.
Thiền Tăng thưa: “Đại Hoà thượng có việc gì?
Xin cứ dặn dò”.
Đại
Từ nói: “Ngươi có thể dẫn ta cùng đi không?”.
Thiền
Tăng thưa: “Có thứ còn hơn Hoà thượng nữa,
cũng không thể mang đi”.
Đại
Từ cười.
Sau
đó, vị Tăng này vân du đến Động Sơn, đem công án
này khai sáng tông Tào Động - Đại sư Lương Giá.
Đại sư Động Sơn Lương Giá hỏi ông ta: “Cao
Tăng, ông trả lời như thế nào?”.
Thiền
Tăng thưa: “Hoà thượng đến làm gì?”
“Được”.
Đại sư Động Sơn thầm bảo. Tiếp đó, Động Sơn lại
hỏi: “Đại Từ còn có lời thiền gì không?”.
Thiền
Tăng thưa: “Đại sư Đại Từ thường nói trên
pháp đường; ‘nói được một trượng, không bằng làm
được một thước, nói được một thước không bằng đi
được một tấc, nói cái làm được, làm cái nói được”.
Đại
sư Động Sơn nghe xong rất hoan hỷ, đứng dậy cung
kính nói: “Hoà thượng Đại Từ, cắt nghĩa cái
lẽ của sự vật, nhưng ta lại không nói như thế”.
Thiền
Tăng là một người hiểu biết, lập tức hỏi tiếp: “Đại
Hoà thượng, Ngài nói sao?”.
Động
Sơn Lương Giá ung dung nói: “Làm
được điều không nói được, nói được điều không
làm được”.
Trong
tay đại Tông sư, kim là đầu chỉ là não, không gì
là không phải Thiền, nói ngang nói dọc cũng
giống thiền cơ.
Bài liên quan:
Sự Và Lý
Mỹ là
quốc gia có phương tiện giao thông hiện đại phát
triển sớm nhất và cũng phát đạt sớm nhất trên
thế giới. Đồng thời với sự hưởng thụ đầy đủ về
tiện lợi giao thông, quốc gia của họ cũng là
nước gặp phải những nhức nhối do giao thông hiện
đại hoá mang lại sớm nhất. Ban đầu, những ngã tư
giao thoa giữa đường sắt và quốc lộ, thường xảy
ra va chạm giữa xe hơi và tàu hoả, tai nạn lớn
xảy ra xe hỏng người chết.
Nước
Mỹ, đất rộng người thưa, giá cả sức lao động rất
quý, không thể ở mỗi ngã tư đều phân bố những
nhân viên trực ban. Để giảm thiểu tần độ xảy ra
tai nạn nghiêm trọng, tránh tổn thất to lớn về
kinh tế, nhắc nhở quảng đại quần chúng lúc đi
qua ngã tư đường sắt, chú ý an toàn cho bản thân,
họ liền quyết định trong phạm vi toàn quốc, công
khai trưng tập những câu cảnh thị an toàn, yêu
cầu ngắn gọn, trong sáng, rõ ràng, thông thường,
dễ hiểu, làm cho người ta vừa thấy đã hiểu, và
có tác dụng nhắc nhở. Từ đó, giảm thiểu xảy ra
tai nạn giao thông. Đương cục đường sắt không
tiếc tiền của, thường khai triển những cuộc thi
về vấn đề này, phát thưởng lớn cho những người
sáng tạo những thuật ngữ làm biển báo hay nhất.
Thông qua sự chọn lựa, bình phẩm của các chuyên
gia, mọi người nhất trí tuyển chọn một thuật ngữ
cảnh báo hay nhất trong số đó: Dừng, Nghe, Nhìn.
Đồng
thời với việc người sáng tạo ra nó đạt được phần
thưởng lớn, đoản ngữ đơn giản, rõ ràng này được
đương cục đường sắt làm tiêu chí cảnh báo ở ngã
tư đường sắt, đoản ngữ rõ ràng dễ thấy xuất hiện
nơi tất cả các ngã tư giao thoa là:
“Stop
Listen Look!” (dừng nghe nhìn)
Thật
là kỳ tích, từ lúc có cảnh báo dễ hiểu rõ ràng
này, xe cộ đi qua ngã tư giao thoa đường sắt đều
có thể tự giác tuân thủ, một dừng, hai nghe, ba
nhìn, không tuỳ tiện hành sự nữa, tỷ lệ xảy ra
tai nạn tụt xuống nhanh chóng.
Thế
mà, một hôm có một chiếc xe con lúc đi qua ngã
tư giao thoa giữa quốc lộ và đường sắt, chẳng hề
hiểu về bảng cảnh báo “dừng, nghe, nhìn”, cứ
băng băng thẳng qua… kết quả chiếc xe hơi lỗ
mãng và chiếc tàu hoả gào thét chạy đến, tiếp
xúc thân mật, chiếc xe chạy nhanh bị tông văng
ra rất xa, rất xa, người lái xe chết ngay tại
chỗ!
Sau
này, lúc cảnh sát địa phương điều tra, họ vô
cùng kinh ngạc, vô cùng bất ngờ, đương cục đường
sắt lại càng kinh ngạc gấp bội, chẳng thể tin
được. Bởi vì họ phát hiện từ giấy chứng minh của
người chết, ông ta -
người bỏ
mạng trong tai nạn xe hư người chết lần này -
lại chính là người đã đoạt giải thưởng lớn trong
lần nọ!
Chính là
ông ta, người đã sáng tạo ra thuật ngữ cảnh báo
“Stop Listen Look”!
Có
thể nói, trên thế giới không có ai biết rõ hơn,
hiểu rõ hơn ông về đạo lý “dừng, nghe, nhìn”,
thế mà, cuối cùng thân mạng cũng tiêu vong.
Câu
chuyện hiện thực tàn khốc này làm chúng ta đau
lòng, run sợ lạnh xương sống. Làm vị thầy giáo
dạy dỗ người khác rất dễ, làm người học sinh áp
dụng vào thực tế rất khó: Mọi người đều biết ở
trên cao ngăn cấm mọi người, bản thân phải chăng
có thể làm được, bước đến được thật địa? Chỉ nói
thì không được, chỉ học tập lý lẽ mà không làm
theo, kết quả của nó tất nhiên cũng giống như
người phát minh ra thuật ngữ cảnh báo tốt lành
kia. Chúng ta nên nhớ kỹ: “Nói được một
trượng, không bằng làm được một thước”.
Liên Hải
dịch
|