Những Kẻ ở Trọ
Nguyên Hiệp
Tiếng đóng cửa rất mạnh. Sức mạnh dồn vào cánh
cửa, đập vào thành cửa, và khiến người nghe phải
giật mình mỗi khi cô gái ra vào phòng. Không
hiểu sao một cô gái với vóc người khá mảnh dẻ và
rất đỗi dịu dàng lại có những cái đóng cửa quá ư
nặng nề.
Ngày
đầu cô chuyển đến, tôi đã ấn tượng ngay với kiểu
đóng cửa của cô, mà lúc ấy tôi nghĩ là do cô
đang buồn giận hay có chuyện gì đó bực mình.
Thói quen suy nghĩ của tôi bảo vậy, bởi thấy
nhiều người thường trút giận lên chén bát, tivi,
vợ con và kể cả khi đóng cửa hay lái xe. Nhưng
kinh nghiệm của tôi đã sai trong chuyện này, bởi
sau vài ngày thì tôi nhận ra rằng không phải cô
gái đang trút giận lên cánh cửa mà chỉ do thói
quen – thói quen đóng cửa mạnh.
Cô
gái ở tầng dưới. Cửa vào phòng nằm ngay cầu
thang. Thỉnh thoảng tôi gặp cô ở cầu thang,
nhưng chúng tôi không hề chào hỏi nhau, bởi cô
luôn cúi mặt nhìn sang một bên và nép mình qua
cầu thang nhường lối. Và nhìn thấy cô kéo chiếc
khăn trùm đầu xuống thêm tôi hiểu là mình nên đi
nhanh qua, hơn là bước chậm lại chào một câu xã
giao. Nhưng nơi cô gái tôi thấy không biểu hiện
chút gì sự rụt rè nhút nhát. Thái độ ấy có lẽ
chỉ là thói quen – thói quen cúi mặt mỗi khi gặp
người lạ.
Riết
rồi tôi cũng quen, coi chuyện gặp mặt cô và đi
nhanh qua là một chuyện phải vậy. Không khác
được. Nhưng tại sao cô phải cứ cúi mặt? Cứ ngẩng
lên thì đã có sao… Ờ, mà đâu có thể nói vậy được
nhỉ. Con người ta có những thói quen khác nhau;
và có những thói quen nhiều khi thật bình thường
nhưng lại khó hiểu.
Nhưng
rồi cô gái đã tìm đến tôi, không phải để nói
chuyện mà nhờ đóng giúp cánh cửa, bởi cô không
thể nào đóng được. Đó là hậu quả của một quá
trình liên tục đóng cửa mạnh mà có lẽ cô đã
không ngờ đến. Tất nhiên là tôi đã giúp cô. Và
cánh cửa đã đóng lại được sau khi dùng búa gõ
lại thành cửa. Cô gái cám ơn, nhưng không nhìn
thẳng vào tôi, cũng như lúc lên nhờ. Thay vì nói
“không có chi” như thường được dạy để đáp lại
lời cám ơn, tôi nói, “Tôi nghĩ cô không nên đóng
cửa quá mạnh. Cánh cửa bị hổng có lẽ do điều
đó”. Cô gái ngẩn người một lúc rồi nói “Thật vậy
sao? Từ đây tôi sẽ đóng cửa nhẹ hơn.” Rồi thôi,
không nói gì nữa. Và tôi không còn gì để làm,
cũng không biết gì để nói, nên lên lại phòng
mình.
Sau
lần đó, mỗi khi gặp tôi cô đã cất tiếng chào,
hoặc đáp lời khi tôi chào trước, nhưng vẫn không
hề ngẩn đầu lên. Thôi vậy cũng được, dù sao đã
có tiến bộ. Có lần cô hỏi tên tôi sau khi đã
giới thiệu tên mình. Tôi đáp, “Tên tôi là Đăng”,
một câu đầy đủ chủ vị. Cô nhíu trán một đỗi rồi
phát âm và hỏi lại “Có phải tên anh (hoặc mày)
đọc là Đang không?” Tôi cười, đáp phải, cho
xong. Bởi chẳng thể bảo cô đọc cho đúng được,
cũng như mình chưa chắc đã đọc đúng tên của cô.
Càng lúc thấy cô càng thân thiện hơn. Có lần cô
hỏi tôi “Sao thấy anh ăn mặc khác mọi người?”
Tôi cười, đáp, “Tôi là một tăng sĩ Phật giáo.”
Cô ngớ người ra rồi à lên như hiểu được một điều
bí ẩn.
Tôi
gặp cô lần cuối cũng tại cầu thang, bốn tháng
sau khi cô chuyển về sống ở ngôi nhà này. Cô
ngồi khóc tức tưởi trước cửa vào phòng. Sách vở
rớt vung vãi trên bậc cấp. Chiếc khăn trùm tuột
khỏi đầu, vất vưởng một nửa trên bờ vai. Cô gái
đang gặp chuyện bất ổn, và điều đó hình như đau
đớn lắm. Tôi dừng lại, nói một câu khách sáo “Cô
chắc đang gặp chuyện bất ổn. Tôi có thể giúp gì
được cô không?” Đến khi nghe tiếng nói cô mới
biết rằng tôi đang hiện diện ở đó. Cô nhặt chiếc
khăn choàng lại lên đầu, vắt một vạt qua khuôn
mặt đầm đìa nước mắt, rồi lắc đầu. Tôi nhặt mấy
cuốn vở đặt dưới chân cô, không còn biết làm gì
khác hơn.
Ngày
hôm sau cô gái không đến trường. Cửa phòng đóng
im ỉm. Ngày tiếp vẫn không thấy cô, tôi tìm gặp
chủ nhà để hỏi thăm. Ông chủ im lặng một lúc rồi
thở dài “Cô bé về nước rồi. Ba cô ấy bỏ mạng
trong một vụ nổ bom”. Ông chủ nói chậm, giọng
ngẽn và đôi mắt hằn lên sự căm giận. “Cô ấy có
trở lại không, thưa ông?” Tôi hỏi. “Tôi không
rõ. Cô ấy đã gửi chìa khoá lại tôi, nhưng đồ đạc
vẫn còn một ít trong phòng.”
Chủ
nhà của tôi là một người đàn ông trung niên,
sống một mình trong căn phòng vừa vừa như bao
căn phòng trong ngôi nhà mà ông cho thuê. Ông bị
bệnh tim, khá nặng, tuy vậy vẫn nhận gia công đồ
mỹ nghệ, làm ngay tại phòng ở. Căn phòng của ông
bề bộn, đồ đạc chen kín mọi nơi, trông mệt mỏi.
Đời sống của ông thật đơn giản: không vợ không
con, không bia không rượu, không thuốc lá, không
ti vi, không thịt cá… và còn không nhiều cái nữa
mà một người đàn ông bình thường xem là thứ phải
hưởng thụ. Mà những cái “không” đó có thể đại
diện cho một đời sống được coi là đơn giản không
nhỉ? Không biết!
Có
những chiều ông thẫn thờ dọc con phố nhỏ trước
nhà, hắt hiu mờ nhạt như vạt nắng cuối ngày. Ông
ít khi trò chuyện với ai, không biết là thói
quen hay sở thích. Có lần tôi hỏi ông có thấy
buồn thấy cô độc không thì ông chỉ cười - cười
độ lượng. Thấy mình thật ngớ ngẩn, hay hỏi nhưng
câu chẳng vào đâu. Đời này có ai không buồn?
Người ta đề huề vợ con, vây kín bạn bè không
chắc là không buồn không cô đơn! Thỉnh thoảng
ông cũng lên chỗ tôi, nhưng không bao giờ bước
vào phòng, chỉ dạo quanh quẩn nơi khoảng sân nhỏ
phía trước. Câu mà ông thường hỏi tôi nhất vẫn
là “Khi nào cậu về nước?” Và thay vì nói điểm
thời gian nào đó, tôi lại nói “Khi nào khoá học
kết thúc.”
Ông
cũng thích hỏi về chùa chiền, về đời sống tu sĩ.
Tôi luôn thắc mắc là không hiểu sao ông không
thích đời sống tu sĩ, bất kể của tôn giáo nào.
Ông bảo tôi học xong thì nên hoàn tục, sống đời
sống của người thế tục vui và tốt hơn. Tôi hỏi
tại sao tốt hơn thì ông không giải thích. Ông kể
chuyện các vị du tăng của tôn giáo ông, cứ đi
hết nhà này đến nhà khác xin tiền, rồi ăn uống
tạp nhạp, khiến nhiều người ngán ngẩm. Ông kể
thành thật, nét bặt biểu lộ sự bất bình. Trong
kinh Phật cũng có những nơi thuật lại những điều
giống như ông kể. Mọi người ai cũng sợ bị xin.
Và dù là ai đi nữa mà cứ đi xin xỏ hoài thì rồi
cũng sẽ bị chán ghét, bị xua đuổi.
Sau
ngày cô gái về nước nửa tháng, ông đem toàn bộ
sách vở của cô ấy lên cho tôi, nói rằng cô gái
bảo thế. Cô gái không trở lại nữa, quyết định
nghỉ học nửa chừng. Trông ông chủ buồn buồn. Mắt
ông không giận dữ như hôm ông kể tin về cô gái
mà trở nên thăm thẳm. Tôi nhìn chồng sách nằm
bất động ở gốc phòng, một nỗi buồn mơ hồ lan
toả. Tôi thật chẳng biết làm gì với chồng sách
khác ngành này. Tôi nhặt ra từ đóng sách cuốn
kinh Koran đưa ông chủ, nhưng ông không nhận, từ
chối mà không nói lý do. Tôi hỏi hơi thiếu tế
nhị “Hình như Ấn giáo không thích Hồi giáo phải
không ông?” Ông lắc đầu, “Không nên nói thế… Mà
cậu sẽ nghĩ thế nào nếu tôi nói thích hay không
thích?” Im lặng một lát ông lại nói tiếp “Tôi
và con bé không chung đức tin, nhưng tôi xem nó
như con gái của mình. Tôi và cậu cũng khác tôn
giáo, nhưng tôi vẫn quý mến cậu. Xét cho cùng
thì chúng ta vẫn là con người với nhau. Chúng ta
có thể không thích những điều do con người tạo
ra, nhưng chúng ta không được phép căm ghét con
người”. Tôi thật bất ngờ với những gì
ông nói, không phải do nó mới mẻ mà vì những
điều đó được phát ra từ ông.
Ông
chủ đứng dậy, lẩm nhẩm một điều gì đó rồi trở về
lại phòng. Tôi ngồi im, thực hành điều tức và
quán niệm từ bi. Cô bé liệu có thương được người
đã giết chết cha mình không? Thương được kẻ thù
của mình mới thật khó!
Tôi
ôm chồng sách đặt lên bàn, định hôm sau sẽ đem
đến cho một thư viện. Bước ra khỏi phòng, đã
thấy chàng sinh viên ở phòng dưới ôm đàn lững
thững bước lên.
Chàng
sinh viên này thuê phòng ở đây trước tôi. Chàng
gốc một tỉnh nào đó ở miền Nam, xuất thân từ một
gia đình có lẽ cũng không khá giả gì. Chàng ta
sở hữu một cơ thể dong dỏng gầy gầy, đôi mắt hun
hút sâu và bộ râu quai nón rậm ri. Trang phục
luôn xộc xạch, quần jean bạc thếch và áo thun
dính đầy sơn dầu, nhưng trông có vẻ lãng tử và
phong trần. Chàng ta thỉnh thoảng lên khoảng sân
thượng này vào buổi tối để chơi đàn. Chàng ta
chơi đàn tốt, đánh thành thạo các loại nhạc mới
và móc nhạc cổ điển cũng không chê vào đâu được.
Chàng ta ít nói, lầm lì và cô độc, có vẻ bất cần
đời. Tôi ít nói chuyện với chàng ta, bởi do thói
quen không thích làm quen người khác trước, mà
chàng ta có lẽ cũng vậy nên dầu có gặp mặt nhau
thì cũng chỉ chào lấy một câu chứ chẳng hề trò
chuyện.
Một
hôm thấy chàng ta cạo sạch râu, ăn mặc lịch lãm,
hơi lạ nên tôi hỏi “Hôm nay trông anh khác mọi
ngày.” Anh ta mỉm cười, khuôn mặt rạng rỡ, phấn
chấn, “Tối nay tôi sẽ đưa bạn gái của tôi đi dự
một buổi sinh nhật.” Suy nghĩ gì đó một lát anh
ta nói tiếp, “Tôi chỉ quen cô ấy thời gian gần
đây thôi. Cô ấy xinh đẹp đáng yêu.” Thì ra vậy,
chàng ta đang yêu. Tình yêu khiến chàng ta vui
tươi và hoạt bát hơn. Sau lần đó, chàng ta ít
khi lên khoảng sân này để chơi đàn, chắc bị cuốn
theo cô gái xinh đẹp đáng yêu kia.
Hôm
nay chàng ta lại xách đàn lên đây. Thân hình gầy
rạc, bước chân liêu xiêu như người bệnh nặng vừa
mới khỏi. Bộ râu quai nón không được tỉa gọt có
cơ hội thể hiện sự tự do, mọc tua tủa bồm xồm,
như một búi cỏ bị hun khói. Gặp tôi, chàng không
chào hỏi, lẳng lặng ngồi xuống chiếc ghế đá và
bắt đầu khảy đàn. Từng nốt đơn rời rạc, khô khốc
tan vào màn đêm vàng vọt. Chàng ta không chơi
một bản nhạc nào cụ thể. Đầu óc hình như đang ở
ngoài khoảng sân này. “Hình như anh bị bệnh à?”,
tôi hỏi. Chàng ta dừng tay lại, ghì cằm lên
thùng đàn, mắt nhắm nghiền, đáp, “Gần như thế”.
Rồi chàng ta bứt mạnh vào một sợi dây đàn. Một
sợi dây vô tội lìa đôi. Hình như thấy hối hận,
chàng ta kéo chiếc thánh giá đeo trước ngực ra
ấn lên trán rồi làm dấu thánh.
- Cô ấy chia tay tôi rồi. Chàng ta bắt đầu thổ lộ bằng một chất
giọng sầu bi sau một lúc im lặng.
- Cô nào nhỉ? Tôi hỏi lại.
- Cô gái mà trước đây tôi đã từng nói với anh.
- Cô ấy không còn yêu anh nữa à?
- Tôi không nghĩ vậy. Gia đình cô ấy đã gả cô cho một người thích
hợp hơn.
- Thích hợp hơn là thế nào? Anh không thích hợp với cô ấy?
Chàng trai thở dài rũ rượi, ngước mắt lên trời:
- Biết nói thế nào nhỉ? Có lẽ không phải do tôi không thích hợp, mà
chính địa vị xuất thân của tôi không thích hợp.
….
- Có lẽ anh nên quên cô ấy.
- Tôi cũng đang cố như vậy nhưng không dễ. Tôi quen cô ấy chỉ tình
cờ. Trước đó cô ấy là bạn gái của một người bạn
của tôi. Tôi đã đoạt cô ấy từ người bạn của
mình. Và giờ đây tôi không có gì cả…
- Nhưng mọi việc đã rồi. Giờ anh có ủ rũ vậy cũng không thể thay
đổi sự việc.
- Tôi biết. Nhưng mọi việc không dễ. Anh là người ngoài cuộc nên
nghĩ vấn đề đơn giản hơn.
….
- Trời khuya rồi. Tôi nghĩ là anh nên về phòng nghỉ, ngồi hoài thế
này không đem lại điều gì tốt đẹp hơn. Tôi tiếc
là không giúp gì được anh.
- Tôi kể chuyện này với anh không phải chờ đợi một lời khuyên hay
sự giúp đỡ. Anh có thể vào nghỉ trước. Tôi muốn
ngồi lại đây thêm một lát nữa.
Tôi
vào phòng lấy sợi dây đàn mà mình còn dư và lên
dây lại cho anh ta, rồi để anh ta tự do phơi
sương và gặm nhấm nỗi buồn của mình.
Sau lần đó, chàng ta không còn lên khoảng sân thượng này nữa. Thỉnh
thoảng tôi gặp chàng ta trên đường đi học hoặc ở
cầu thang. Chàng ta không còn quá đau khổ, nhưng
cũng chẳng có gì vui vẻ. Không biết chàng đã
quên được cô gái kia chưa, và không biết cô gái
kia có thấu hiểu nỗi đau của chàng không, có
thương nhớ chàng không, hay hình ảnh của chàng
đã tàn phai và dồn sâu dưới lớp gấp đại não khi
nàng hạnh phúc bên chồng con?
Chàng
ta sống cùng nhà với tôi thêm vài tháng nữa thì
chuyển đi. Hôm chàng ta chuyển nhà, tôi đi vắng
nên không gặp mặt để chia tay. Mấy hôm sau trở
về, thằng bé giúp việc cho ông chủ đem lên cho
tôi một bức tranh và một mẩu giấy nhỏ, “Tôi
chuyển khỏi nơi này nhưng không gặp được anh.
Đây là bức tranh tôi vẽ, gửi tặng anh. Tạm biệt”.
Tôi xếp mảnh giấy lại và ngắm bức tranh. Thì ra
chàng ta học hội hoạ. Bức tranh trừu tượng quá.
Tôi chẳng hiểu gì cả, bởi thiếu căn bản về hội
hoạ và khả năng cảm thụ mỹ thuật không mấy được
tốt. Tôi đặt bức tranh lên bàn học, lấy mấy thỏi
sô cô la mà một người bạn vừa cho đưa thằng bé.
(Nói
thêm về thằng bé)… Thằng bé này vẫn thường lên
chỗ tôi chơi. Tôi không biết ba nó, bởi chưa gặp
mặt, còn mẹ nó làm công việc lau quét cho các
gia đình trong khu phố tôi ở. Nó chừng mười một
tuổi. Thần thể gầy còm, nước da đen xám. Hình
như nó bị bệnh phổi, thấy nó thở mệt nhọc. Mười
một tuổi, nó chưa có công việc chính thức. Nó
thường theo mẹ, và ông chủ thấy vậy nên mới bảo
nó giúp việc vặt cho mình. Công việc chẳng có gì
nặng nhọc, chỉ lấy cho ông chai nước, mua cho
ông chút đồ, phụ ông bỏ mấy mặt hàng vào hộp.
Ông chủ là người tử tế, đối xử với nó tốt.
Khoảng sân thượng này là nơi dành cho nó chơi
banh. Không biết nó tìm đâu được một trái banh
bể rồi mang lên chơi say sưa một mình. Thằng bé
không có niềm vui, nhưng chẳng có nỗi buồn. Nó
vô tư. Điều gì khiến nó vô tư? Phải chăng nó
chưa đủ tuổi để nghĩ ngợi? Không biết được! Tôi
nhìn thằng bé, thấy một tương lai mờ mịt như màu
da của nó. Tôi không giúp gì được nó, ngoài mấy
viên kẹo, ít trái cây mà tôi có. Hôm đi học về,
tôi ghé tiệm mua cho nó trái banh mới. Thằng bé
sướng rơn, dụt trái banh bể vào gốc sân, nhận
trái banh rồi nói với tôi điều gì đó mà tôi
không hiểu. Giữa tôi và nó luôn tách rời và đơn
độc trong ngôn ngữ.
Nhưng
không lâu sau đó mẹ nó đã gửi nó đến giúp việc
cho một cửa tiệm tạp hoá. Không biết với độ tuổi
đó nó có thể làm gì được ở một cửa hàng. Hôm đi,
nó đem trả tôi trái banh và nói gì đó tôi cũng
không hiểu. Trông nó buồn - nó bắt đầu biết
buồn. Tôi cũng buồn. Tôi vẫn không giúp gì được
nó ngoài mấy thỏi bánh.
….
Mùa
đông kéo đến. Trời đất trở nên u buồn ảm đảm.
Tôi khoác thêm chiếc áo ấm và đến bệnh viện thăm
ông chủ. Ông nhập viện đã ba hôm và chuẩn bị cho
một ca mổ tim. Mọi thủ tục giấy tờ đã làm xong
và chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là lên bàn mổ.
Ông nằm yên, mắt ngước nhìn lên trần nhà, trông
tỉnh táo. Gặp tôi ông vẫn hỏi “bao giờ cậu về
nước?”. Rồi ông bảo rằng nếu ông không tỉnh lại
sau ca mổ thì tôi cứ hãy ở lại nhà ông cho đến
khi khoá học kết thúc. Tôi cười, an ủi rằng ông
sẽ có được sức khoẻ tốt hơn sau lần phẩu thuật.
Ông nhìn tôi, bảo rằng cũng hy vọng vậy.
Nhưng
ông đã không qua được. Ông đã bắt đầu cho một
giấc ngủ dài và tạm bỏ xác thân này. Tôi chuẩn
bị đồ đạc để rời khỏi nơi trọ vì sau khi ông chủ
mất ngôi nhà đã được trao lại cho người em, và
căn nhà tạm ngưng cho thuê để sửa sang lại. Chủ
mới bảo tôi tạm chuyển đi nơi khác một thời gian,
chờ khi ông sửa nhà xong hẳn về ở lại. Tôi cám
ơn ông nhưng biết rằng mình sẽ không còn trở lại
ngôi nhà này nữa.
Đồ
đạc không có gì nhiều: mấy thùng sách, giỏ áo
quần, và bức ảnh Phật mà tôi đã mang theo mình
gần hai mươi tháng. Bức ảnh đã bạc màu đi nhiều,
một vài nơi bị ố vàng. Tôi nhìn tôi, thấy đời
mình cũng hoen màu lốm đốm. Chen chân trong dòng
đời mà thong dong tự tại, độc cư trong rừng sâu
mà không hề sợ hãi là thái độ sống của những bậc
Thánh, tôi nghe nói vậy.
Tôi
vẫn là một kẻ phàm phu thứ thiệt. Tôi lại chuẩn
bị chuyển đến một nơi trọ mới.
Nguyên
Hiệp
theo
Hoa Linh Thoại

|