Nhàn Đàm Về Nịnh
TRẦN TRUNG HẢI
Trong giao tiếp
hàng ngày, chúc tụng, ca ngợi, động viên cổ vũ,
khen nhau khiến cho nhau phấn khởi vui vẻ trong
cuộc sống là chuyện thường tình. Thế nhưng nịnh
hót, nịnh nọt để thành kẻ nịnh bợ thì cũng không
phải là chuyện hiếm.
Các kiểu nịnh xưa
nay rất đa dạng, nhưng đều có chung một bản sắc,
đó là tự hạ mình ca tụng, khen ngợi bề trên một
cách quá mức để tranh thủ cảm tình, cầu lợi cho
bản thân.
Xưa nay nịnh chỉ
có một chiều: dưới nịnh trên, không hề có chuyện
người trên nịnh kẻ dưới, ngoại trừ trường hợp dỗ
dành trẻ con. Và lúc này nịnh đã biến thành nựng.
Theo sử sách đông
tây kim cổ, kẻ thành đạt, giàu có quyền thế bậc
nhất nhờ nịnh hót thì chưa ai vượt qua được Hòa
Thân thời vua Càn Long nhà Thanh Trung Quốc. Khi
Càn Long hứng chí làm thơ, Hòa Thân ca tụng hết
lời: "Thơ của Hoàng thượng hay tuyệt đỉnh,
chữ viết như rồng bay phượng múa. Triều đình ta
mấy nghìn năm chưa có ai làm thơ hay và viết chữ
đẹp như thế!". Hễ có dịp là Hòa Thân ca tụng
"Công ơn của Hoàng thượng như trời bể, tài
đức sánh ngang với Nghiêu, Thuấn!".
Với những lời
phỉnh nịnh ngọt ngào như thế, Hòa Thân từ một
tên quan lại hạng quèn đã leo lên đến Tể Tướng
và giàu có tột đỉnh. Tài sản nhà họ Hòa còn lớn
hơn ngân khố quốc gia.
Chẳng cứ gì Hòa
Thân, xưa nay những kẻ xu nịnh vẫn thường a dua
theo đuổi kẻ có quyền thế, phủ nhận và xuyên tạc
sự thật bất chấp lẽ phải. Sử Trung Quốc vẫn còn
ghi chuyện Triệu Cao, Tể tướng nước Tần, rất
được lòng Tần Nhị Thế áp mưu giết hại Thừa tướng
Lý Tư, Triệu Cao đem dâng vua một con hươu và
bảo nhà vua rằng đó là con ngựa. Tần Nhị Thế hỏi
quần thần "Con vật này là hươu hay ngựa. Bọn
quan lại xu nịnh Triệu Cao đều tâu là ngựa!"
Đấy là
chuyện bên Tàu.
Ở Việt Nam ta
cũng có khối chuyện vui lý thú. Như chuyện tên
đầy tớ nịnh chủ trong chuyện cười Việt Nam. Tên
đầy tớ có thói quen phỉnh nịnh, chủ nói gì hắn
đều nói theo và phóng đại tô màu. Đi chơi, ông
chủ khen: "Lúa đồng làng này tốt quá".
Tên đầy tớ ca theo "Lúa đồng làng ta tốt gấp
mười lần…". Chủ khen cô thôn nữ xinh gái,
tên đầy tớ ca theo: "Cô nương nhà ta xinh gấp
mười lần". Khi gặp một bà già, chủ nhận xét
bà xấu xí, tên đầy tớ quen mồm buột miệng: "Bà
nhà ta xấu gấp mười lần…" . Thì ra nịnh hót
đã thành quán tính.
Nghệ thuật nịnh
bao giờ cũng dùng lời lẽ rất văn vẻ để người
trên vừa lòng như chuyện tên lính hầu phát hiện
trên chòm râu quan huyện có dính hạt cơm. Hắn đã
quỳ tâu: “Bẩm quan lớn, có hạt minh châu
vương trên long tu ngài”. Quan hiểu ý nhặt
bỏ hạt cơm, rất hài lòng khen tên hầu bẻm lép
thông minh.
Tuy vậy, trong
kho tàng chuyện nịnh trên thế gian này có lẽ
chưa có chuyện nịnh nào vượt qua được tầm nịnh
trong chuyện "Nịnh rắm" của nước ta. Chuyện kể
rằng trong một buổi thăng đường, huyện quan vô
tình tuông ra một cái “rắm”. Quan đang bối rối
thì viên thơ lại đã đến bên xun xoe: "Bẩm
quan lớn, con nghe như có tiếng đàn, tiếng sáo…".
Một viên thơ là khác lại thốt lên: "Bẩm quan
lớn con thấy thoang thoảng hương quế, hương lan…"
.
Huyện quan tỏ vẻ
buồn rầu: “Ta nghe nói, trung tiện mà thơm
thì ta e chẳng còn sống được bao lâu nữa”.
Hai viên thơ lại cuống quít đính chính: "Bẩm
quan lớn, dạ, bây giờ mới có mùi ạ!", "Dạ,
bẩm quan lớn, bây giờ thì thối lắm, thối lắm ạ!"
Suy cho cùng,
nịnh là để chiếm cảm tình của cấp trên để mưu
cầu lợi ích riêng. Nịnh là phép xử thế của những
kẻ bất tài, kém sức nhưng lại muốn vươn lên bằng
thủ thuật nịnh bợ. Xã hội càng phát triển, thủ
thuật nịnh càng tinh vi, đa dạng. Từ những ngôn
từ đẹp đẽ tâng bốc đón ý cấp trên, tranh thủ cảm
tình đến hạ mình phục vụ hầu hạ, biếu xén quà
cáp, hối lộ đất đai, tiền bạc.
Vì vậy các nhà xã
hội học đều cho rằng nịnh là có hại cho sự phát
triển xã hội. Ngay từ thời Tam Quốc, Tào Tháo đã
viết xuống chiếu cầu hiền: "Trị vì đất nước,
thiết tập trăm quan, phải thực sự phòng người xu
nịnh . . . " . Cho nên, nhận ra được bộ mặt
thật của kẻ xu nịnh không phải là khó nhưng để
tránh được sự tâng bốc, phỉnh phờ, đường mật rồi
vô tình lạc vào mê cung thì thật không dễ. Phát
hiện kẻ nịnh rồi tìm cách tránh, xưa nay không
phải là không có.
Chuyện cũ kể rằng
quan đại phu nước Tề là Trâu Ký rất khôi ngô,
tuấn tú. Qua việc ba bà vợ đều khen ông đẹp trai
hơn Từ Công. Ông hiểu là người đời thường xu
nịnh nên tâu với Tề Uy Vương tìm biện pháp lắng
nghe trực tiếp ý kiến của thần dân Tề Uy Vương
ra lệnh: "Ai vạch chỉ ra lỗi lầm của nhà vua
trước mặt triều đình thì được thưởng loại 1 . Ai
dâng biểu hạch tội nhà vua được thưởng loại 2.
Ai có lời chỉ trích nhà vua được thưởng loại 3".
Lệnh vua vừa ban
ra, dân chúng kéo đến cổng thành đông như họp
chợ. Tề Uy Vương mới bừng tỉnh, biết mình trước
đây toàn nghe theo lời của bọn nịnh thần nham
hiểm...
Trong sử sách
cũng còn ghi chuyện Sở Trang Vương lúc nào cũng
lo lắng việc nước luôn hỏi han quần thần nhưng
lũ nịnh thần lúc nào cũng ca tụng Sở Trang Vương
sáng suốt, tài ba. Sở Trang Vương rất buồn, ông
than: "Ta đây đã ngu mà đình thần lại ngu hơn
ta nữa thì nước ta có lẽ khó mà giữ được Yên".
Sau đó Sở Trang
Vương loại bỏ hết bọn nịnh thần, trọng dụng
người tài khiến nước Sở ngày càng hùng mạnh. Tề
Uy Vương, Sở Trang Vương không nghe lời xu nịnh
nhưng trên thế gian này vẫn còn vô số những
người thích nghe những lời tâng bốc đến nỗi tan
tành sự nghiệp, mất cả mạng sống của mình.
Danh tướng Quan
Vũ (Quan Vân Trường) một trong ngũ hổ thời Tam
Quốc, oai phong lẫy lừng là thế nhưng lại mất
cảnh giác trước lời tâng bốc, phỉnh nịnh của Lục
Tốn - đại tướng Đông Ngô, để rồi bị Lục Tốn đánh
úp chiếm đóng Kinh Châu và chặt đầu Quan Vũ.
Nói công bằng, có
người ưa nịnh thì cũng có người khẳng khái không
ưa nịnh, luôn giữ bản chất trong sạch của mình
trước kẻ cường quyền dù đó là Vua của một nước.
Nhan Súc, học giả nổi danh của nước Tề không
chịu xu nịnh. Tề Tuyên Vương là một ví dụ.
Chuyện kể rằng
khi vua đến chơi nhà Nhan Súc, vua gọi: "Nhan
Súc, lại đây!", y như kiểu gọi một đứa trẻ.
Nhan Súc điềm tĩnh đáp lại: "Hoàng thượng!
Lại đây!". Các quan theo hầu hạch tội. Nhan
Súc giải thích: "Vua gọi mà Nhan Súc lại để
xun xoe thì Súc là người xu nịnh ham muốn quyền
lực. Súc gọi mà nhà vua lại thì vua là người quý
trọng hiền sĩ. Nếu để Súc này mang tiếng hâm mộ,
xu nịnh quyền thề thì sao bằng để nhà vua được
tiếng quý trọng hiền tài". Thật là một lập
luận biện hộ hết sức tài tình.
Trong cuộc sống
ngày nay, xu nịnh vẫn luôn tồn tại ở đâu đó,
dưới nhiều hình thức, nhiều kiểu cách, mức độ
khác nhau. Phân biệt được khen ngợi chân tình,
thực lòng hay tâng bốc nịnh nọt thực ra không
khó lắm.
Nhưng khổ một nỗi,
loại bỏ thói xu nịnh lại chẳng dễ dùng vì con
đường tiến thân bằng xu nịnh lại thường bằng
phẳng, ít chông gai và vì xu nịnh đều dùng lời
đường mật dễ thấm vào lòng người.
Chẳng thế mà thời
nay đã hình thành câu cửa miệng: “Bằng lòng
hơn bằng cấp”, song hành cùng câu tục ngữ
thời xưa "Mật ngọt chết ruồi".
TRẦN TRUNG HẢI
(theo
Phật Tử Việt Nam)
|