Vài Suy Nghĩ Về Giáo Dục
Tự Viện
THÍCH ĐẠO LUẬN
Trong bất kỳ thời đại nào, ở bất cứ quốc gia nào,
nền giáo dục được đặc biệt quan tâm thì ở đó phú
cường và thịnh vượng là những hệ quả tất yếu
theo sau. Trong ý nghĩa ấy, giáo dục trở thành
hơi thở của dân tộc.
Cùng
ý hướng ấy, đối với Phật giáo, sức mạnh cũng tùy
thuộc vào giáo dục. Giáo dục càng phát triển thì
Phật pháp ngày càng hưng thịnh; giáo dục là mạch
sống của đạo pháp. Một trong những bậc thầy sống
hết mình vì sự nghiệp giáo dục đào tạo Tăng tài
trong thời hiện đại cần được nhắc đến là Hòa
thượng Tuyên luật sư thượng Đỗng hạ Minh. Sinh
tiền, Hòa thượng từng dạy: “Đức Phật suốt đời
chỉ làm một việc giáo dục, chúng ta suốt đời
cũng phải vì sự nghiệp ấy”. Giáo dục đào tạo
Tăng tài có tầm vóc quan trọng như vậy, thì chắc
chắn ngôi trường giáo dục đầu tiên cũng vô cùng
quan trọng. Ngôi trường giáo dục đầu tiên đề cập
ở đây chính là môi trường giáo dục tự viện. Đây
là môi trường giáo dục mà thiết nghĩ, nó cần
được chú trọng, quan tâm hơn bao giờ hết trong
thời đại ngày nay.
I. VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TỰ VIỆN
Kể từ
ngày đức Thế Tôn tuyên thuyết Tứ Diệu Đế tại
vườn Nai, đánh dấu cho sự hiện hữu Tam Bảo ở thế
gian, cũng là lúc tổ chức Tăng đoàn đầu tiên
được hình thành dưới sự dẫn dắt của đức Thế Tôn.
Từ năm người đệ tử đầu của đức Phật (năm anh em
Kiều Trần Như), vâng theo tôn ý của đức Thế Tôn
cất bước ra đi đến những nơi chúng sanh cần để
“tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”, “vì lợi ích
của phần đông”, dần dần số người xuất gia tu học
theo đức Phật lên tới con số hàng ngàn. Từ đó,
vấn đề tổ chức hướng dẫn cho lớp người mới bước
chân vào đạo ngày càng được chú trọng. Giáo dục
tự viện bắt đầu manh nha từ đó.
1. Vị
trí của giáo dục tự viện
Nơi
đầu tiên đặt chân vào Đạo bao giờ cũng là nơi để
lại trong tâm hồn mỗi người những kỷ niệm, những
ấn tượng khó quên. Nó sẽ đồng hành cùng chúng ta
đi suốt những năm tháng của cuộc đời. Một Bồ-đề
tâm mãnh liệt, một ý chí phát túc siêu phương;
song, hạt giống ấy có được ươm mầm tươi tốt hay
không còn cần được tưới tẩm bởi những cơn mưa
thân giáo, khẩu giáo, ý giáo và sự ngào ngạt của
chơn hương giới, định, tuệ của Thầy tổ và huynh
đệ đồng tu. Một tự viện sống trọn vẹn với tinh
thần lục hòa sẽ là bài học vỡ lòng đầy ấn tượng
cho hàng sơ tâm vào đạo. Cho nên, giáo dục tự
viện là mắc xích quan trọng trong việc đào tạo
những vị sứ giả Như Lai, là nền tảng của tất cả
các môi trường giáo dục khác. Không những vậy,
nó còn có vị trí vô cùng quan trọng trong việc
tài bồi, phát triển nhân cách đạo đức, định
hướng cho cá nhân và đào tạo Tăng tài cho Phật
giáo.
Nói
như vậy, không có nghĩa là coi nhẹ vị trí của
giáo dục học đường Phật giáo. Giáo dục học đường
Phật giáo là một hỗ trợ đắc lực cho giáo dục tự
viện. Xưa kia, giáo dục tự viện phần nhiều đóng
khung, xa trần lánh tục, nên vấn đề truyền đăng
tục diệm chỉ được thực hiện trong phạm vi tự
viện; còn giờ đây, với sự phát triển và nhu cầu
của xã hội, tăng sĩ nhập thế dấn thân, tham gia
nhiều hoạt động xã hội, từ đó đặt ra vấn đề, làm
thế nào để lời dạy của đức Phật đi sâu vào tất
cả mọi tầng lớp nhân dân đang sống trong thời
đại tri thức. Giáo lý Ngũ minh đáp ứng được
những đòi hỏi trên và học đường Phật giáo là nơi
lý tưởng nhất cho sự truyền trao và tiếp nhận
hành trang nhập thế này. Hai hình thức giáo dục
trên bổ sung, hoàn thiện cho nhau để đào tạo,
trang bị cho những vị sứ giả Như Lai tài đức vẹn
toàn và một phương thức hoằng hóa năng động, phù
hợp với những đổi thay trong cuộc sống đầy biến
động như hiện nay.
Song,
đứng ở góc độ quản lý mà nói, ta càng thấy giáo
dục tự viện rõ ràng có nhiều ưu điểm hơn. Trong
một trường Phật học, khoảng hai thầy Giáo thọ và
một hai thầy quản chúng ít nhất phải quản lý cả
trăm Tăng ni sinh, còn trong một tự viện, một
thầy trụ trì và thêm một hay hai thầy quản
chúng, quản lý nhiều nhất cũng chỉ khoảng 20 vị.
Đương nhiên, hiệu quả quản lý như thế nào chưa
hẳn quyết định ở tỷ lệ người quản lý và người
chịu quản lý, mà chủ yếu quyết định ở khả năng,
phương pháp và uy đức của người quản lý. Song,
không thể phủ nhận là giữa số người phụ trách
quản lý và hiệu quả giáo dục có một mối quan hệ
nhất định. Trong tự viện số lượng chúng điệu ít,
thầy trụ trì và thầy quản chúng quan tâm chu đáo
hơn, giám sát chặt chẽ hơn, có nhiều thời gian
chăm sóc gần gũi hơn với những chú tiểu cá biệt,
đặc biệt là đời sống tự lập sớm của các chú tiểu
“khu ô” Sa di.
Mặt
khác, chúng điệu càng được đào tạo lâu trong môi
trường giáo dục tự viện thì phong vị thiền môn
càng thấm sâu hơn, tập khí thế tục càng được
đánh bạt triệt để hơn, từ đó, khả năng phòng hộ
cũng càng được mạnh mẽ hơn. Càng gần gũi lâu với
thầy, không những học được những bài học từ khẩu
giáo của thầy, mà sống động hơn là những bài học
từ thân giáo của thầy, được thầy truyền trao
bằng cả con tim yêu thương đầy trí tuệ và tâm
nguyện “tiếp dẫn hậu lai”.
Phương pháp giáo dục tự viện cũng linh hoạt hơn,
không bị hạn chế bởi thời gian, nơi chốn, môi
trường, điều kiện, v.v… mỗi lúc mỗi nơi đều có
thể truyền trao, tùy việc mà dạy, tùy cơ mà nói,
lúc nghỉ ngơi, khi vui chơi, lúc nhàn đàm, khi
chấp tác, v.v…
2.
Vai trò của giáo dục tự viện
Khi
mới bước chân vào đạo, chùa là ngôi trường đầu
tiên, Bổn sư là vị thầy đầu tiên trên bước đường
tu học. Trong tình thương và dìu dắt của thầy,
điệu dần dần học cách đi, đứng, nằm, ngồi sao
cho hợp với Tăng phong đạo cách, học cách thờ
thầy rồi từ từ nhận ra bổn phận và trách nhiệm
của người học trò, nhận ra mối quan hệ giữa mình
với huynh đệ đồng tu và những người xung quanh.
Giáo
dục tự viện cũng tác động và ảnh hưởng rất lớn
đến giáo dục học đường. Chú điệu từ lúc hành
điệu đến lúc đi học rồi khi ra làm việc đều phản
ánh rõ ràng hiệu ứng của những môi trường giáo
dục tự viện khác nhau. Chùa đóng vai trò uốn nắn
bước đầu cho các điệu. Khi còn hành điệu ở chùa,
nếu điệu được giáo dục tốt, oai nghi, hạnh kiểm,
kiến thức, thể lực… đều phát triển tốt thì, khi
đi đến học ở các trường Phật học, cá nhân có
thêm điều kiện học tốt hơn và nhà trường cũng đỡ
phần lo lắng hơn; bằng ngược lại, cá nhân thì
chịu nhiều thua thiệt còn nhà trường cũng thêm
phần lao tâm. Đôi khi để uốn nắn những khuyết
điểm của họ buộc nhà trường phải dùng những biện
pháp mạnh. Song, “tre già” liệu có uốn được
không, đây là điều mà chúng ta cần suy nghĩ và
đặt ra cho những bậc có trách nhiệm uốn nắn điệu
lúc thuở còn “măng”.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA GIÁO DỤC TỰ VIỆN
Là
một hình thức giáo dục, hơn nữa lại là một môi
trường giáo dục mang tính nền tảng, nên để hiểu
sâu và đánh giá đúng mức vị trí và vai trò của
giáo dục tự viện, thì không thể không tìm hiểu
xem những đặc điểm của nó, để từ đó chúng ta có
những nhìn nhận sâu hơn, những hoạch định cụ thể
hơn và những bước đi thiết thực hơn cho môi
trường giáo dục này.
1.
Tính mô phỏng
Khi
mới bước chân vào chùa, với điệu mà nói, thầy
Bổn sư và anh em huynh đệ đi trước đều là những
người mà mình cần thân cận gần gũi để học hỏi
những cung cách hành xử trong cuộc sống mới. Đặc
biệt là cung cách từ vị thầy Bổn sư. Từ dáng đi
thế đứng, cách nói chuyện giao tiếp, nhất nhất
đều có thể trở thành những bài học giản dị dễ
hiểu để điệu học theo. Thậm chí, thái độ, tư
tưởng, quan điểm đối với các vấn đề trong cuộc
sống xã hội cũng trực tiếp hoặc gián tiếp tác
động đến những nếp sống, suy nghĩ, tư tưởng và
có thể làm định hướng cho tương lai của điệu sau
này. Chính sự bỡ ngỡ đầu tiên khi mới vào chùa
đó, nên một phản ứng mô phỏng tự nhiên để thích
ứng với cuộc sống mới cũng theo đó mà có mặt.
Oai nghi, phong thái, cung cách và cách nhìn
nhận vấn đề của người thầy sẽ một phần tìm thấy
nơi người học trò. Bởi lẽ người xưa có câu: “Nơi
người con có bóng dáng của người cha”.
2.
Tính cảm hóa
“Cát
ái từ thân”, bước chân đến phương trời cao rộng,
vào sống cùng thầy nơi ngôi nhà pháp, tu học với
đệ huynh trong tình “cốt nhục Linh Sơn”, trong
khuôn viên mái chùa mộc mạc, tình nghĩa thầy trò
như tình cha con. Không phải sức mạnh của đòn
roi mà là sức mạnh của tình thương nơi người
thầy mới là nguồn lực tiếp thêm cho người trò
sửa đổi những lúc lỗi lầm, và tự tin, ý chí hơn
những khi yếu lòng gục ngã. Một cử chỉ, một nụ
cười, có ai ngờ lại là tiếng ru ngọt ngào vô
thanh vô sắc; một câu động viên, một lời khẽ
trách, ấy vậy mà trở thành đôi bàn tay ấm áp ấp
ủ chở che cho học trò trên suốt cuộc hành trình
lội ngược. Huyết thống không cùng nhưng huyết
duyên thì quyện kết. Tâm nguyện, thao thức của
thầy sẽ phá tan đi bóng đêm của ủy mỵ và sự quỵ
ngã nơi trò trước những nghịch duyên tưởng chừng
như phó mặc theo dòng đời phiêu dạt. Truyền trao
bằng tuệ giác, cảm hóa bằng tình thương là sức
mạnh bất khả tư nghì nơi cửa Thiền vô trụ.
3.
Tính tôn nghiêm
Sự
tôn nghiêm của người thầy là tiền đề, là một bảo
đảm vững chắc cho giáo dục tự viện thành công.
Được sống thân cận với vị thầy phạm hạnh thanh
tịnh, uy đức trang nghiêm, người trò sẽ có cảm
giác an lạc hơn, giải thoát hơn, trần tâm được
gột bỏ nhiều hơn, tâm Bồ-đề được lớn mạnh thêm.
Người thầy không những là điểm tựa cho trò về
phương diện đời sống vật chất hằng ngày mà quan
trọng hơn còn là bến đỗ tinh thần cho học trò
quy hướng. Hình tượng một người thầy mẫu mực
trong tâm khảm của trò có một sức lay động và
điều chỉnh rất lớn trong oai nghi giao tiếp ứng
xử nơi người trò. Mất đi sự tôn nghiêm người trò
dễ bị hụt hẫng, dễ nảy sinh cảm giác buông xuôi,
và rất có thể sẽ mất đi cơ hội bước tiếp về phía
trước.
4.
Tính khế cơ
Không
ai hiểu con hơn cha mẹ, cũng như không ai hiểu
trò hơn thầy. Một tiếng bước đi, một lời thưa
thỉnh của trò cũng đủ để người thầy thấy cả
những lời trò chưa nói, những suy nghĩ tận sâu
thẳm con tim. Cùng chung sống trong một mái chùa,
những ưu và khuyết điểm của trò được thầy ghi
nhận một cách chân thực, toàn diện và đầy đủ, từ
đó, người thầy tùy theo khả năng, tính cách,
trình độ của trò mà có những phương cách giáo
dục cụ thể, thiết thực và hiệu quả hơn.
5.
Tính xuyên suốt
Giáo
dục tự viện không phải kết thúc vai trò của mình
khi điệu bước chân vào giảng đường Phật học, mà
nó gắn kết với điệu đến suốt cuộc đời. Thời còn
để chỏm, sớm hôm kinh kệ cao ngâm, thầy tổ đệ
huynh giảng dạy oai nghi, chỉ bày tế hạnh. Lớn
lên vào trường rồi nhập thế độ tha cũng vẫn nhờ
thầy tổ đệ huynh sẻ chia kinh nghiệm, sách tấn
tiến tu, khuyến tấn giữ gìn tôn phong tổ ấn, chỉ
bày phương tiện hưng hiển thiền lâm. Đảnh lễ
chúc tết thầy vào dịp Tết cổ truyền, khánh tuế
hạ lạp thầy sau ngày Tự tứ, Vu lan cũng là dịp
để thầy trò huynh đệ ngồi lại chia sẻ, động viên
nhau trên bước đường tu học, hành đạo.
III. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN TRONG GIÁO DỤC TỰ VIỆN
1.
Thượng tôn tinh thần lục hòa kính
Tăng-già là đoàn thể của những người phát nguyện
sống cuộc đời phạm hạnh, đem chất liệu của an
lạc hạnh phúc chia sẻ cho mọi người. Để ban tặng
được chất liệu đó không gì hơn là cộng đồng
chung sống với nhau trong tinh thần sáu phép hòa
kính, hòa hợp với nhau như nước với sữa. Thương
yêu, tôn trọng, giúp đỡ nhau cả về vật chất lẫn
tinh thần những lúc ốm đau, bệnh hoạn. Khi tránh
sự xảy ra cần ngồi lại chia sẻ phân tích cho
nhau với ngôn từ hòa ái, lắng nghe, xây dựng và
cảm thông. Tự giác, tự trọng, nhường nhịn và cầu
thị. Được huân đúc trong phong vị thiền môn ấm
áp tình thương, chan chứa nghĩa tình ấy, một
trái tim nhân hậu, một tính cách khiêm cung và
một tâm hồn rộng mở sẽ thể hiện trọn vẹn nơi
từng cá nhân. Chính đây mới là bài học sống động
nhất, để điệu thật sự thấy có hạnh phúc, hiểu ý
nghĩa và trân quý cuộc đời “phát túc siêu phương,
tâm hình dị tục”.
2.
Khế cơ khế thời
Không
phải lời hay lúc nào cũng cho ra một hiệu năng
như mong muốn, mà nó chỉ được tiếp nhận vào đúng
lúc, đúng khả năng. Giáo dục tự viện là một sự
nghiệp trọng đại, mà ở đó, người thầy vừa là một
đấng nghiêm sư vừa là một bậc từ mẫu. Do đó,
hiểu là yếu tố quan trọng để giáo dục, điều
chỉnh, định hướng cho từng giai đoạn phát triển
tâm sinh lý của chúng điệu. Tinh thông giáo lý,
thấu rõ tâm sinh lý từng lứa tuổi, linh động,
uyển chuyển, mềm dẻo là những tố chất cần có nơi
người thầy theo nguyện tiếp tăng độ chúng. Không
phải chỉ đưa ra bàn tay ấm áp của người mẹ hiền
khi trò thối lòng gục ngã mà một cái nhìn uy
nghiêm của thầy cũng cần thiết vô cùng khi trò
hư hỏng bướng ngang.
Đòn
roi không phải là phương cách giáo dục được
khuyến khích trong tự viện. Phương pháp giáo
dục khoa học, đúng đối tượng, tùy lúc, do đó,
cần được xem là nền tảng để nối nhịp cầu hiểu và
thương giữa trò và thầy.
3.
Gương sáng treo cao
Không
như giáo dục bên ngoài chỉ chú trọng ở mặt
truyền trao kiến thức và kết thúc ở những con số
thành tích, giáo dục tự viện đặt nặng ở vấn đề
giáo dục chúng điệu thành những con người có
nhân cách mô phạm, mẫu mực trong lời nói, ý nghĩ
và việc làm. Do đó, thân giáo, khẩu giáo và ý
giáo của thầy tổ và các bậc đàn anh đi trước sẽ
là tấm gương trực tiếp để chúng điệu noi theo.
Treo lên tấm gương sáng là chúng ta đã khắc vào
tâm khảm chúng điệu một ấn tượng sâu sắc về tăng
phong đạo cốt của bậc xuất trần thượng sĩ. Từ đó,
lời khuyên dạy của thầy được trân trọng và có
sức thuyết phục hơn mọi hý luận lợi khẩu rỗng
không.
4. Bi
trí song vận
Kết
quả của tình thương mù quáng sẽ cho ra trái đắng
khổ đau. Giáo dục tự viện được chuyên chở
trên đôi cánh Bi và Trí sẽ giúp ta xử lý và cân
bằng tốt các mối quan hệ giữa tình cảm và lý trí.
Từ bi giúp nuôi dưỡng tình thương vô biên tế đối
với muôn loài chúng sanh, thiết lập nên nhịp cầu
cảm thông và san bằng hố sâu đố kỵ, ganh tỵ, vị
kỷ hẹp hòi, cho ta nhìn đời bằng con mắt yêu
thương mỗi sớm mai thức dậy. Trí tuệ giúp ta
nuôi lớn Thánh chủng Bồ-đề, chặt đứt sợi dây
trói buộc của hiềm khích, nghi ngờ, sợ hãi, cho
ta đến với nhau trong tình huynh đệ tương thân,
xả kỷ vị tha, hiến thân phụng sự. Thiếu vắng
tình thương, đối với những chúng điệu sớm xa gia
đình mà nói là thiếu đi dưỡng chất tinh thần,
thiếu đi sự quan tâm cần thiết mà chúng điệu
xứng đáng được quan tâm. Song, thương không có
nghĩa là nuông chiều, bao che, bênh vực để cho
điệu mặc tình phóng túng buông lung mà, cần sáng
suốt ngăn chặn những lời nói và việc làm bất
thiện, hướng dẫn điệu đi vào giới luật thanh quy.
Trong từ bi rực đèn trí tuệ, trong trí tuệ nhuận
thắm từ bi mới giúp điệu phát triển toàn diện
hài hòa về tính cách và tâm hồn.
5.
Xây dựng thái độ học tập
Học,
trong tự viện, có thể nói chỉ là yếu tố trợ
duyên cho việc tu. Song, để minh liễu đường tu
thì không thể không “minh Phật tâm tông”. Thái
độ học tập trong tự viện không thể là thái độ
học thụ động, nhồi nhét, và mê tín thần quyền mà
cần phải khuyến khích một thái độ học tập năng
động, sáng tạo. Tranh biện, hoài nghi và xét lại
cần được mời gọi trong phong cách tiếp cận các
vấn đề Phật học. Mục đích của giáo dục tự viện
không phải để đào tạo ra những kẻ nô tài, gọi dạ
bảo vâng, “quên mình trong vâng phục”, mà là để
đào tạo ra những vị Tăng tài đức vẹn toàn, có
chủ kiến, biết độc lập suy nghĩ và có khả năng
phán đoán, phân biệt đúng sai. Do đó, việc xây
dựng một thái độ học tập khoa học sẽ là tiền đề
để sứ mệnh đào đạo Tăng tài cho Phật giáo đi đến
thành công.
Trong
khuôn khổ bài viết ngắn này, chúng tôi chỉ xin
trình bày vài suy nghĩ thô thiển với ba điểm
trên, để góp tiếng nói lên tầm quan trọng của
giáo dục tự viện. Tóm lại, để kiên cố hơn cho
nền tảng “trồng người”, thiết nghĩ, chúng ta cần
đặc biệt quan tâm hơn nữa đến môi trường giáo
dục tự viện.
Thích Đạo Luận
(theo Hoa Linh
Thoại)
|