Sen Hồng Một Đóa
Thích Nữ Chân Liễu

…Lò
lửa sen hồng mấy kẻ hay
Mây
che nguyệt rạng chẳng phô bày
Ngọc
lành ẩn đá không phai sắc
Bể
thánh nguồn chơn mặc tỉnh say…
Bốn câu thơ trên là của Ni trưởng Như Thanh, một bậc tài năng xuất
chúng được sự ngưỡng mộ và khâm phục trong ni
giới Phật giáo Việt Nam. Như ngọn đuốc sáng bừng
trong đêm tối, Ni trưởng là một bậc chân tu vì
đạo quên mình, sanh năm Tân Hợi 1911, tại huyện
Thủ Đức, Gia Định. Thiện duyên đưa đến, Ni
trưởng xuất gia năm 22 tuổi, đệ tử của Tổ Pháp
Ấn, chùa Phước Tường - Thủ Đức. Với trí thông
minh và lòng hiếu học, cộng thêm nhẫn lực vô
biên, Ni trưởng đã đạt được nhiều thành quả trên
đường tham học Phật pháp từ Nam ra đến Huế và Hà
Nội. Năm 1972, Ni trưởng được Giáo hội giao
trọng trách Vụ trưởng Ni bộ Bắc tông, và giữ vai
trò Cố vấn tối cao trong các nhiệm kỳ kế tiếp.
Ni trưởng viên tịch năm 1999, để lại bao thương
tiếc cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia.
Vài
trang giấy không đủ nói lên hết được đạo hạnh và
gương sáng của người, nhưng để chia sẻ với những
người đang học Phật và tu Phật, những lời dạy
quý báu của người ghi lại trong quyển sách “Cuộc
đời và sự nghiệp của Sư trưởng Như Thanh”
xem như một nhân duyên thiện lành đặc biệt.
Thành kính đảnh lễ giác linh Ni trưởng với tấm
lòng tri ân và niềm cảm phục của hàng hậu học!
Nếu như xưa kia,
khi đồng ý cho bà di mẫu Mahā Prajāpatī (Ma-ha
Ba-xà Ba-đề) cùng 500 người nữ xuất gia trong
giáo pháp, đức Thế Tôn tuyên báo rằng chánh pháp
vì vậy sẽ diệt vong sớm 500 năm. Không ai có thể
đoán rằng chánh pháp tồn tại bao lâu để làm bài
toán trừ 500 năm đó. Khi đề cập đến quá trình
lịch sử đức Phật không cho phép người nữ xuất
gia một cách dễ dàng, Ni trưởng đã có một cái
nhìn tuệ giác như sau: “Vì trách nhiệm của
người xuất gia rất nặng nề, khó nhọc, mà phạm
hạnh cũng khó thực hành, bởi thế đức Phật không
hứa cho người nữ xuất gia một cách dễ dàng. Đây
là bổn ý của đức Phật muốn mở rộng con đường hóa
đạo cho tất cả người nữ sau này. Bởi sự giáo dục
của người nữ thời ấy chưa được phát triển, nên
họ ở trong thế gian bị nhiều sự chướng ngại buộc
ràng, làm cho tâm tính không được sáng tỏ, ý chí
không được sâu rộng. Đức Phật vì muốn cho hàng
Tỳ kheo ni chứng đến các pháp thiệt tánh mà Ngài
đem tâm bình đẳng phương tiện dẫn dắt, khiến cho
mọi người đều được tăng trưởng thiện báo, tiêu
trừ ác nghiệp, sửa đổi phong hóa ở thế gian trở
nên tốt đẹp. Hàng Tỳ kheo ni ở trong chánh pháp
của đức Phật gặp được cơ hội mở mang, truyền bá,
làm cho ánh sáng Phật pháp được chói rạng, tạo
công đức vô lượng”.
Đạo
Phật đã đi sâu vào cuộc đời. Đạo Phật không phải
là lý thuyết suông để bàn luận. Đạo là sống và
hành. Đạo là sự chân thật, sáng suốt, đậm đà và
thanh thoát. Để dẫn dắt người nữ tu vượt qua
được bản tánh nhi nữ thường tình, nhờ khép mình
trong giới pháp, vượt qua mọi trở ngại thuận
nghịch bằng khả năng tu chứng, thì người nữ tu
vẫn có thể phụng sự và xiển dương Chánh pháp. Ni
trưởng chủ trương một căn bản đào tạo ni tài,
lập nguyện kiên cường cho ni chúng, trao truyền
tam học: Giới, Định, Tuệ.
Ni
trưởng dạy rằng:
-
Giới học là giềng mối của người tu Phật.
-
Định học là phép tắc điều phục tâm trí.
- Tuệ
học là năng lực bạt trừ nghiệp chướng si ái.
Ni
trưởng Như Thanh đã trải thân phục vụ đạo pháp,
khiến cho pháp âm truyền bá khắp nơi. Người là
một bậc Ni trưởng đạo cao, đức trọng, làu thông
kinh luật, trước tác, dịch thuật nhiều tác phẩm
có giá trị. Ni trưởng đã dẫn dắt hàng ni chúng
hậu học thoát khỏi những mặc cảm tự ti, sợ hãi,
nhút nhát và khai sáng trí tuệ cho hàng đệ tử.
Công đức của người thực vô lượng, vô biên.
Ni
trưởng luôn luôn quan niệm, để chia sẻ gánh nặng
hoằng pháp, người xuất gia, không phân biệt tăng
hay ni, đều có trách nhiệm góp phần công đức để
đền đáp công ơn sâu dầy của đức Thế tôn.
Khi nói lên phạm
hạnh cao quí của hàng xuất gia, trong tác phẩm
“Giới đức khiêm ưu”, Ni trưởng đã viết như sau:
“Phẩm hạnh cao quý của tăng già là do công
phu tu dưỡng gồm đủ sự lý, đối với tất cả chúng
sanh, tìm đủ các chước phương tiện làm lợi ích
cho mọi người, như khát thì cho uống, đói cho
cơm ăn, bịnh cho thuốc uống, lạnh cho áo ấm, gặp
sợ sệt giúp đỡ an ủi hết sợ sệt, thiếu trí tuệ
giúp đỡ mong cho tâm trí trở nên sáng suốt, cho
đến bỏ mình cho cọp đói ăn cũng gọi là đức hỷ xả
bố thí. Trong hoàn cảnh nhịn khổ chịu nhọc, trăm
phen bẻ gãy mà lòng vẫn dai bền, việc khó nhọc
là cố gắng học tập, việc khó làm cố gắng siêng
làm. Dẫu có người khuấy rối, dằn ép cũng chẳng
căm tức, giận hờn, hình dung vẫn tự nhiên, chẳng
tác sắc nóng nảy bứt rứt”.
Với
khả năng, đức độ, tâm từ bi của người đã tạo cho
hàng ni chúng xuất gia tiến trên con đường giác
ngộ và giải thoát. Sự tương kính nhau như tỷ
muội, dùng tâm niệm bình đẳng đối xử, phẩm hạnh
của người tu trong chúng nên tự xét lại mình để
chừa bỏ lỗi lầm, thay vì phóng tâm nghĩ đến hơn
thua, phải quấy, đúng sai, được mất, biểu lộ đức
tính hiền từ, lễ độ, khiêm cung, khoan dung, hòa
lạc, khiến người xung quanh sanh lòng quý mến
như hoa sen nở hương thơm ngát.
Huynh
đệ cùng nhau gắng học hành
Lời
qua tiếng lại nhớ đừng tranh
Quyết
lòng sửa tánh cho thanh tịnh
Xuân
đến đời ta đặng tiếng thanh.
(Hoa
Đạo)
Trải
qua trong cõi phù sinh
Học
rành chữ nhẫn hữu hình ngại chi
Nhẫn
là phước quả từ bi
Giúp
ta thâm ngộ vô vi đạo mầu.
(Hoa
Đạo)
Lời
thơ của người là khuôn vàng thước ngọc. Thơ văn
của một bậc chân tu đầy đạo tình đạo vị, người
đọc cần lắng lòng tỉnh ngộ. Ni trưởng còn khuyên
nhắc về trách nhiệm của Tỳ kheo ni về sự nghiệp
hoằng pháp như sau:
1,
Xuất gia vì mục tiêu giải thoát tự thân và tha
nhân.
2,
Thiết tha cầu học chánh pháp giữa biển sống vô
thường.
3,
Thể hiện nghiêm túc nếp sống phạm hạnh
Giới-Định-Tuệ,
4,
Phát triển văn huệ, tư huệ và tu huệ.
5,
Tích cực tiếp dẫn hàng hậu học.
6,
Thao thức vì sự nghiệp độ sanh, hưng khởi chánh
pháp.
Ni trưởng là một vị Bồ Tát dấn thân từ ni giới, mang tâm niệm cứu
khổ chúng sanh, thức tỉnh mọi người quay về với
tình thương vô hạn trong giới pháp của đức Thích
Ca Mâu Ni. Dòng pháp nhũ của Ni trưởng Như Thanh
là dòng nước cam lộ của đức Quán Thế Âm, làm dịu
mát những nhiệt não của thế gian, khơi dậy ngọn
đèn trí tuệ, không bị tham sân si trói buộc, sai
khiến, hành xử lợi mình lợi người, sống với tâm
Phật không còn bị vô minh che lấp.
Trong tác phẩm “Hành
Bồ Tát Đạo”, Ni trưởng đã đem tâm huyết của
mình để truyền trao lại cho người xuất gia cũng
như tại gia. Ni trưởng viết: “Nếu trong một
lúc nào đó, chúng ta lắng yên được tâm thức, để
cho nó vắng lặng rỗng rang, chẳng khởi lên một
niệm suy tính so lường, thì tất nhiên trong sát
na ấy, chúng ta nhìn rõ được bản lai diện mục
của mình, thấy rõ chân tâm thể tánh của mình vốn
bất sanh bất diệt, nó xóa bỏ mọi ranh giới ngã
và nhơn, thiện và ác. Trong giây phút linh diệu
ấy, tâm thức chúng ta bổng nhẹ nhàng, cõi lòng
mở rộng với muôn ngàn thương yêu, tình cảm trong
sáng dịu dàng, nó chẳng phải là thứ tình cảm hạn
hẹp, phát sinh từ lòng ái dục, mà phát xuất từ
tâm bi, nên nó bao la, tươi nhuần và bình đẳng,
vô phân biệt. Bấy giờ cái nhìn của chúng ta đối
với vạn vật cũng trong suốt và bình đẳng như thế.
Đây là giây phút mà tâm ta vô trụ, không vướng
mắc, hoàn toàn tự do. Nếu sống mãi với tâm vô
trụ như thế, chúng ta đã được giải thoát, được
an nhiên tự tại”.
Chư
Phật không có tâm phân biệt đây là Tăng, đây là
ni, đây là tướng nam, đây là tướng nữ, tướng đẹp
tướng xấu, tướng giàu tướng nghèo. Chư Phật bình
đẳng tuyệt đối trong phong cách hóa độ chúng
sanh. Bổn phận người tu phải nhận ra con đường
chư Phật đã đi và đã đến.
Đức
Phật đã dạy chúng ta hãy mồi ngọn đuốc Chánh
Pháp của Ngài để tự thắp sáng trí tuệ, thấy
đường mà tu, thấy đạo mà hành. Các đấng tôn sư
đã tha thiết giảng dạy, khuyến tu, chớ nên đợi
khi vô thường đến, không phân biệt già trẻ, sang
hèn, tuổi đời càng chồng chất, đau yếu bệnh tật
sanh ra, làm cho con đường đi đến giác ngộ ngày
càng thêm khó khăn, trắc trở. Bao nhiêu đời kiếp
đã qua, con người mãi trôi lăn trong sanh tử
luân hồi, không biết đến kiếp nào mới vượt thoát
được.
Tóm
lại, Ni trưởng Như Thanh như một đóa sen hồng
vượt ra khỏi mặt nước với vẻ đẹp cao quí của một
bậc giác ngộ. Tư tưởng nhập thế cứu khổ của
người đã để lại cho đời một tấm gương sáng. Ni
trưởng đã vân du khắp mọi miền đất nước, để
thuyết giảng không hề mệt mỏi. Cho đến ngày
thanh thản ra đi, để lại cho đời và cho đạo
nhiều tác phẩm có giá trị tu học, Ni trưởng vẫn
còn mong các đệ tử Phật gia phải giống như hoa
sen rạng ngời ánh sáng trí tuệ, đem ngọn đuốc
chánh pháp soi rọi khắp thế gian u tối, giúp mọi
người thoát khỏi bùn nhơ khổ đau phiền não, vượt
lên trên mặt nước như những đóa sen hồng tỏa
hương thơm tinh khiết của sự giác ngộ và giải
thoát.

|