“Bức
xúc trước những hiện tượng xuyên tạc, bóp méo
Phật giáo một cách vô ý hay cố tâm của một vài
thành phần bất thiện nào đó, và cũng tự xấu hổ
thầm vì sự kém tài, bất lực, vô quyền thế của
chính mình, con đã ước mơ phải chi con có thể
trở về thời xưa, gặp lại được các bậc chính
khách anh hùng, các võ sư bất khuất can đảm cứu
nguy độ thế như các kiếm khách trong các bộ phim
truyện nổi tiếng của Kim Dung tiên sinh như
Quách Tỉnh, Hoàng Dung trong bộ Anh Hùng Xạ Điêu,
Dương Quá trong bộ Thần Điêu Đại Hiệp, Tạ Tốn,
Trương Vô Kỵ trong Tiếu Ngạo Giang Hồ hay Hoàng
Phi Anh, Hoàng Phi Hùng, v.v.
Ôi
chao, những tay kiếm khách anh hùng đó đã một
mình một bóng tung hoành ngang dọc giang hồ với
đường kiếm tuyệt luân chém gục hết bọn xấu ác
cứu nguy cho quần hùng võ lâm hay tiếng hét sư
tử hống của Tạ Tốn làm chấn động đám tà giáo
phải rởn tóc gáy trốn chạy sút giây lưng, hoặc
Nhất Phiến Đa Tình Sở Lưu Hương, một trang tuấn
kiệt hào hoa phong nhã, trên tay chỉ có một
chiếc quạt giấy thôi mà đánh gục hết lũ côn đồ
ngang ngược hay bọn tham quan ô lại…”
Đoạn
văn trên đây trích trong bài viết của một vị Ni
sư tu học từ năm 20 tuổi, tốt nghiệp nhiều bằng
cấp ngoại điển cũng như nội điển, thế học cũng
như Phật học, trong cũng như ngoài nước, viết và
dịch nhiều sách, hiện đang hành đạo tại hải
ngoại, được đăng trên một tập san Phật giáo. Tạm
thời bỏ qua thắc mắc tại sao một vị nữ tu lại bỏ
phí nhiều thời gian tu tập, để tu luyện lắm bộ
phim võ hiệp, chúng ta thử bàn về Thiện và Ác.
Theo
từ điển, ác có nghĩa là hành động, lời nói hay ý
nghĩ xấu, thường gây tai họa, đau khổ cho chính
mình, cho người khác, hoặc cho cả hai, khiến
người lánh xa, không ưa thích, có tác dụng xấu,
bất lợi, đem đến hậu quả khó lường. Thiện có
nghĩa là hành động, lời nói hay ý nghĩ tốt,
thường đem lại an vui, hạnh phúc cho chính mình,
cho người khác, hoặc cho cả hai, khiến người
thương mến, thích thân cận, có tác dụng tốt, đem
đến kết quả mong đợi.
Tuy
nhiên ranh giới giữa thiện và ác lắm khi không
rõ rệt, có thể dễ bị hiểu lầm. Chẳng hạn như một
vị thầy dạy văn, dạy võ, dạy nghề, hay dạy đạo,
thường hay quở trách, la rầy học trò, xem qua có
vẻ ác nhưng thực chất là việc thiện lành, vì đem
lại tương lai cho đệ tử. Trái lại, có người ăn
nói nhỏ nhẹ, vui vẻ, hành động dễ cảm tình,
trông qua có vẻ thiện, nhưng thực chất là việc
xấu ác, vì làm hư người khác, dụ dẫn người khác
vào chỗ sa đọa, mất hết tương lai. Sách có câu:
Giáo đa tất oán. Ngọt mật chết ruồi, chính là
nghĩa đó. Như vậy, muốn xét thiện hay ác, còn
phải xét xem tâm con người muốn gì, khi hành
động, nói năng hay suy nghĩ với mục đích gì.
Người ngoài cuộc phê bình, phán xét đôi khi
không chính xác, nên thận trọng. Làm sao biết
rõ việc nào thiện, việc nào ác. Có những điều
mà ở thời buổi này, địa phương này, tôn giáo này,
xã hội này cho là điều thiện; ở thời buổi khác,
địa phương khác, tôn giáo khác và xã hội khác
cho là điều ác.
Cõi đời này thường, tàn độc nhẫn tâm, thiện ác bất phân. Con
người thường hay, nhân danh công lý, bảo vệ
chính nghĩa, bảo vệ Chánh pháp, đấu tranh tự do,
lo cho nhân quyền, đòi hỏi công lý, thực thi
pháp trị, thực chất chỉ là gieo rắc khổ đau cho
bao kẻ khác, chan rải thù hận, cùng khắp nơi nơi.
Nếu như con người, biết rõ điều thiện, sẵn sàng
tha thứ, cho các người khác, cũng như đã từng,
nhiều lần trong đời, đã tha thứ cho, chính bản
thân mình, cảnh giới thiên đàng, niết bàn cực
lạc, chính là nơi đây!
Trên
cõi đời này, cũng có những người phát tâm xin
tha, cho phạm nhân đã sát hại tàn nhẫn thân nhân
của mình được khỏi tội chết. Tại sao như vậy?
Bởi vì người đó, thấm thía hoàn cảnh, thấu rõ
cảm giác của sự mất mát người thân thế nào, cho
nên không muốn gia đình người khác, dù là phạm
nhân, tức là kẻ thù lâm vào cảnh ngộ đau thương
tương tự.
Thường thường chỉ có những người đã từng rơi vào
hoàn cảnh khốn khổ thảm thương mới biết cảm
thông, thương xót người khác. Những người có tâm
đại từ đại bi dường ấy mới có cuộc sống an lạc
không có hận thù, không có phiền não và không
khổ đau, đồng thời tạo được an lạc hạnh phúc cho
mình cho người. Ðó là những người thọ Bồ tát
giới, hành Bồ tát đạo, sống với tâm Phật, không
sống tâm ma, luôn luôn cảnh giác, luôn luôn tỉnh
thức. Ðó chính là những người biết sống với Chân
Tâm Phật Tánh của chính bản thân.
Ngày
xưa, vị Tổ sư thứ hai mươi bốn Aryasimha, trước
khi bị vua Kế Tân chém đầu đã phát nguyện: Ngay
khi đắc thành đạo quả sau này, người đầu tiên
tôi sẽ độ chính là bệ hạ! Tại sao vậy? Bởi vì,
có gặp tai nạn lớn lao, tai họa khủng khiếp,
thậm chí mất mạng, mới có thể chứng minh trình
độ tu tập, chứng tỏ quá trình tu chứng của con
người. Không phải chúng ta mong cầu khổ nạn đến
để thử thách công phu tu tập của mình. Tuy nhiên,
một khi khổ nạn xảy ra, do hiểu sâu nhân quả,
chúng ta biết ngay: đã đến lúc phải trả nghiệp
quả, từ nghiệp nhân, do chính mình tạo tác, từ
nhiều kiếp trước hoặc kiếp này. Cho nên, chúng
ta vẫn giữ được thái độ bình tĩnh thản nhiên,
chấp nhận đền trả quả báo, mới là đáng quý, chứ
van xin cầu nguyện có được gì đâu? Phân biệt
thiện ác chỗ này chỉ làm loạn tâm mà thôi!
Mỗi
thời đại lịch sử, mỗi xã hội, và có thể ngay
trong mỗi con người, lại có cách phân biệt thiện
ác khác nhau. Có người quan niệm: cái gì hợp với
quyền lợi, với phong tục tập quán của ta là
thiện, cái gì trái với quyền lợi, với phong tục
tập quán của ta là ác. Chẳng hạn như trong xã
hội, quan niệm về chữ hiếu khi ông bà cha mẹ lớn
tuổi, sức khoẻ kém, chúng ta cố gắng chăm sóc về
phương diện sức khoẻ và về phương diện tinh thần,
cầu mong ông bà cha mẹ sống đời với con cháu,
cho tới khi họ mãn phần số, thì địa táng hoặc
hỏa táng. Nhưng cũng có các bộ tộc quan niệm
rằng khi ông bà cha mẹ lớn tuổi, già yếu, bệnh
hoạn khổ sở, cho nên họ bắt người già leo lên
cây, con cháu xúm nhau rung gốc cây một lát.
Người nào còn đủ sức khoẻ bám chặt ngọn cây,
xong rồi leo xuống, con cháu mừng vui hỉ hả.
Người nào rớt xuống chết, họ ăn thịt bởi vì họ
thương ông bà cha mẹ, nên không chôn dưới đất,
hoặc hỏa thiêu, tội nghiệp…
Thí
dụ khác, trong xã hội chúng ta hiện nay, nhiều
người đang tranh cãi, chưa có kết thúc về chuyện
trợ tử, tức là giúp cho bệnh nhân hết cách chữa
trị được chết mau chóng, là thiện hay ác, là hợp
pháp hay phi pháp? Thí dụ khác nữa, trong xã hội
chúng ta hiện nay, nhiều người thường cho rằng
các tôn giáo luôn luôn dạy điều tốt, điều thiện,
điều lành. Nhưng có vài tôn giáo tự cho rằng tôn
giáo mình mới thực sự là thiện lành, công chánh,
còn các tôn giáo khác là ngoại đạo tà giáo, là
yêu ma quỉ quái, phải xa lánh và phải tiêu diệt.
Cho nên trong việc hôn nhân, có tôn giáo nhân
danh cái thiện của tôn giáo mình, ép buộc, cưỡng
bách người theo tôn giáo khác phải cải đạo, mới
chịu làm phép hôn phối, bất chấp nỗi phiền não
khổ đau của hai gia đình và hai người muốn thành
tựu hôn nhân và sống cuộc đời lương thiện. Trong
trường hợp này, các chức sắc tôn giáo đó là
thiện hay ác đây?
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
“Lấy oán báo oán,
oán nghiệp chập chùng.
Lấy ơn báo oán,
oán nghiệp tiêu tan”.
Bị
người thù ghét dù thực vô cớ, vô lý quá chừng,
chúng ta cũng đừng khởi tâm tức giận, nên hiểu
nguyên do, hiểu sâu nhân quả, chắc chắn phải có
nhân duyên đời trước, duyên cớ đời này, chỉ vì
chúng ta không biết đó thôi. Chẳng hạn như là:
lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, cũng có thể là
nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn. Cạnh
tranh nghề nghiệp hay tâm ganh tị, đố kỵ gièm
pha… đó cũng là những nguyên nhân dễ hiểu. Tuy
nhiên, nếu ta có dịp giúp đỡ được những người đó
trong lúc họ gặp hoàn cảnh khó khăn, hay đang
hoạn nạn, chúng ta có nhiều cơ hội hóa giải thù
hận oán hờn, biến thù thành bạn. Như vậy chắc
chắn tốt đẹp hơn là tiếp tục tranh chấp, thù hận
người ta, để rồi nơm nớp sợ bị trả thù, phập
phồng âu lo, đời sống bất an, không lúc nào yên,
làm sao sống nổi?
Thông
thường, làm ơn được coi là việc thiện, gây oán
được coi là việc ác. Làm ơn giúp người thường
được xem là việc thiện, nhưng giúp người làm
chuyện gian dối, phi pháp thì nên xem là việc ác.
Làm việc thiện nguyện, thiện chí, công quả
thường được xem là việc thiện, nhưng gặp trở
ngại, khó khăn hay gặp kẻ ác gây rối, phá hoại,
bèn khởi vọng tâm tức giận, la lối, mắng chửi,
trở thành thô tháo, bất thiện. Ấn tống kinh sách,
băng giảng thường được xem là việc thiện, nhưng
nội dung kinh sách hay băng giảng đó không phải
là chánh pháp, là tà pháp, thì nên xem là việc
ác. Chúng ta cần thận trọng khi góp phương tiện
hay công sức, in ấn phổ biến các loại gọi là
kinh sách hay băng giảng, mà mình chưa biết rõ
nội dung, chưa biết chắc là chánh pháp hay tà
pháp, như vậy đắc tội không phải phước, gây oán
không phải ơn, tạo ác không phải thiện!
Một
người có tuổi phát nguyện vô chùa tu tâm dưỡng
tánh là việc thiện, nhưng bất hiếu bỏ cha mẹ vô
chùa khi tuổi xế chiều bệnh hoạn không chăm sóc,
thì phải xem là việc bất thiện, vô lương tâm,
nếu không muốn nói là việc ác. Bởi vậy cho nên
khi làm việc thiện, việc phước mà khởi vọng tâm,
khởi tâm sân, khởi tâm kiêu mạn phách lối, thiện
biến thành ác! Tu hành cần quan tâm thiện ác,
luôn quán sát hành động, lời nói và ý nghĩ của
mình không làm tổn hại, gây đau khổ cho người
khác vì tâm tham, tâm sân và tâm si. Người khác
nhắc nhở sự sai sót là việc thiện giúp mình tốt
hơn, mình lại nổi sân thì nên xem là việc bất
thiện. Người có tâm bất phân thiện ác là người
nguy hiểm, vô đạo đức, nên tránh xa.
Trong Kinh Pháp Cú, đức Phật có dạy:
“Chư
ác mạc tác.
Chúng
thiện phụng hành.
Tự
tịnh kỳ ý.
Thị
chư Phật giáo”.
Nghĩa là:
“Không làm các điều ác.
Hãy
làm các hạnh lành.
Giữ
tâm ý thanh tịnh.
Là lời chư Phật dạy”.
Chúng
ta thấy rõ chủ yếu của đạo Phật là chuyển hóa
nghiệp ác thành nghiệp thiện và thanh lọc tâm
cho thanh tịnh. Cho nên đạo Phật chủ trương
chuyển hóa người ác thành người thiện, chuyển
hóa phàm nhân thành thánh nhân, chuyển hóa phân
rác thành hoa tươi, chuyển hóa nước đục thành
nước trong, chứ không chủ trương tiêu diệt tất
cả kẻ ác trên đời. Bông sen từ bùn nhơ vươn lên
tỏa hương thơm ngát là ví dụ tượng trưng cụ thể
người xấu cũng có thể chuyển hóa thành người tốt,
nếu như biết sám hối ăn năn, quyết tâm chuyển ba
nghiệp xấu ác, trở thành ba nghiệp thanh tịnh.
Trên đời không ai hoàn toàn xấu ác, cũng không
ai toàn thiện, cho nên người tu theo Phật cố
gắng biết các điều ác nên bỏ, biết các việc
thiện nên làm. Được như vậy, mọi người trong xã
hội sống chung trong hòa hợp, bình an, và ngăn
ngừa các mâu thuẫn, xung đột giữa người với
người. Tuy nhiên sự khác biệt của đạo Phật với
các tôn giáo khác nằm ở câu kệ thứ ba: "Giữ tâm
ý thanh tịnh".
Khi
con người làm nhiều việc phước thiện, làm nhiều
công quả cho chùa, làm nhiều Phật sự cho giáo
hội, thường nghĩ đến công sức đóng góp lớn lao
của mình, không cần học giáo lý, không biết pháp
môn quán tâm, trí tuệ không khai mở, lăng xăng
lộn xộn, không biết giữ tâm ý thanh tịnh, nên tự
cao tự đại, mục hạ vô nhân, thượng đội hạ đạp,
khinh người tu sau mình, gây bao ác cảm với
người chung quanh, không ai dám nhắc nhở, không
chịu nghe ai góp ý, không đọc kinh sách dạy kinh
nghiệm tu hành, chỉ hướng tâm thích sách nào,
người nào nói chuyện viễn vông cõi trên sung
sướng, lại còn đoan chắc rằng nhứt định mình
phải được vãng sanh sau này, nếu không thì nhân
quả không đúng. Như vậy là thiện hay bất thiện?
Thiệt là tội nghiệp vô cùng!
Con
người đang tu tập chưa biết "bỏ ác làm thiện"
được hoàn toàn chưa, thường vội tự hào cho mình
là người thiện, người tốt, người lành, bèn khởi
tâm tự đắc đó là vọng tâm, chưa phải minh tâm.
Nếu tâm mình còn nổi sân khi thấy chuyện bất
thiện, chuyện chẳng lành trên thế gian, khởi
vọng tâm, vọng niệm muốn trừng phạt nặng nề kẻ
xấu ác, thậm chí đòi tiêu diệt tất cả kẻ ác trên
đời, ước mơ phải chi mình có võ công xuất chúng,
có quyền thế vô song, để tung hoành ngang dọc
giang hồ với đường kiếm tuyệt luân chém gục hết
bọn xấu ác, thì lúc đó không biết: ai ác hơn ai?
Bởi vậy cho nên tu theo đạo Phật cốt yếu là luôn
luôn sống với bản tâm thanh tịnh, có nghĩa là
lúc nào cũng niệm Phật tức là niệm thiện, không
khởi niệm ma tức là không khởi niệm ác, không
khen mình khinh người, không lợi mình hại người,
niệm Phật phải gắng tu, không chạy theo vọng tâm
vọng niệm, tự thanh lọc tâm ý mình, cho được
minh tâm kiến tánh.
Tu
thiện nghiệp hay tu cầu phước, tức là mình đang
gieo nhân lành, mình sẽ gặt quả lành, được hưởng
phước báu nhân thiên, chứ chưa giải thoát ra
khỏi vòng sinh tử luân hồi. Còn chấp chuyện làm
phước phải hưởng phước, niệm Phật phải vãng sanh,
cúng đèn được hưởng sáng suốt, cúng hoa được
hưởng sắc đẹp, như vậy tâm mình vẫn còn vọng
động, bởi dính mắc tâm tham, thi ân còn cầu báo,
cho bánh ít đi mong bánh quy lại, nên tâm chưa
thanh tịnh, chưa được minh tâm làm sao kiến tánh?
Muốn
thanh tịnh được tâm ý, con người phải vượt qua
sự chấp thiện và ác. Tuy vẫn cứu người giúp đời,
vẫn làm việc phước thiện, vẫn niệm Phật chuyên
cần, vẫn thường xuyên cúng hương đăng hoa quả,
vẫn tinh tấn công quả cúng chùa, vẫn nhất tâm
kính lễ tôn tượng đức Phật với tâm kính ngưỡng
noi gương chư Phật, chư Tổ, nhưng không mong cầu
bất cứ điều gì cho bản thân, cho thân bằng quyến
thuộc, như thế bản ngã mới dần tiêu mòn, chuyện
khổ vì cầu bất đắc không còn. Mình không cố chấp
thiện và ác, để khỏi khởi vọng tâm chấp kính
trọng người thiện, khinh khi kẻ ác, chứ không
phải chẳng phân biệt thế nào là thiện, thế nào
là ác, như một ít người lầm tưởng. Vượt qua được
sự cố chấp thiện và ác tức là mình thoát khỏi sự
trói buộc của thiện nghiệp và ác nghiệp, mới đi
đến giác ngộ giải thoát hoàn toàn.
Trong
sách có câu: "Giáo đa tất oán". Nghĩa là dạy
nhiều sinh thù oán. Trong đạo cũng như ngoài đời,
thường khi những người có lòng, muốn chỉ dạy
nhiều cho thế hệ sau, muốn truyền dạy tất cả
những điều cần thiết, muốn những người nối dõi
đạt được những thành tích khả quan. Tuy nhiên,
chính vì muốn quá nhiều như vậy cho nên chỉ dạy
quá nhiều, kỷ luật nghiêm khắc, rèn luyện khổ
công, kiểm soát chặt chẽ, sách tấn thường xuyên,
nhiều người thế hệ sau chẳng những đã không biết
ơn, đã không hiểu thấu tấm lòng của thế hệ trước,
trái lại còn sanh tâm oán trách, hờn giận, tệ
hơn nữa là sanh tâm thù hận. Ðúng là "làm ơn mắc
oán" đó vậy!
Cổ
nhơn có dạy: "Người chê ta mà chê phải tức là
thầy ta. Người khen ta mà khen phải tức là bạn
ta". Ðối với người đời, quan niệm này quả là kim
chỉ nam cho bực quân tử trong việc xử thế ở đời.
Tuy nhiên, đối với người biết tu tâm dưỡng tánh,
theo quan điểm của đạo Phật, người khác khen hay
chê dù phải hay không phải, chúng ta đều tôn
trọng họ như bực thầy lành hoặc bạn tốt. Còn hơn
thế nữa, chúng ta nhìn họ như những bực Bồ-Tát.
Tại sao vậy? Bởi vì, người giúp đỡ phương tiện
cho mình tu tập, hoằng pháp lợi sanh, cũng như
người chuyên phá rối, bằng hành động cũng như
bằng lời nói, đều là bực "thiện hữu tri thức"
của mình.
Hạng
người thứ nhứt được ví như Bồ-Tát thuận hạnh,
chẳng hạn như thầy dạy học hay bạn hữu hằng giúp
đỡ chúng ta, thường ban cho những lời khen
thưởng thực tình, đúng lúc để khuyến khích, động
viên tinh thần, hoặc chê trách hay quở phạt với
tất cả tấm lòng từ bi, vì sự tiến bộ của chúng
ta, chứ không vì bản ngã của họ. Hạng người thứ
hai được ví như Bồ-Tát nghịch hạnh, chẳng hạn
như giám khảo trường thi hay trường đời. Những
người này nhiều khi khen chê không phải lúc,
không phải vì thiện tâm, lại có dụng ý, ác tâm,
không phải vì chúng ta, mà vì bản ngã của họ.
Nhờ
hạng người thứ nhứt, chúng ta có được sự hiểu
biết, có được kiến thức, đạt được giác ngộ, vững
tâm tu học, biết đường ngay lẽ phải để noi theo.
Nhờ hạng người thứ hai, chúng ta có được bằng
cấp ở đời, nếu vượt qua được sự khảo hạch và thi
đậu, hoặc chúng ta biết được trình độ tu tâm
dưỡng tánh của mình đã đến đâu, đạt được trình
độ nào, chăn trâu tới giai đoạn thứ mấy.
Trong
các ngôi chùa Việt thường có thờ tôn tượng của
cả hai hạng người trên đây: tượng đức Hộ Pháp và
tượng Tiêu Diện Ðại Sĩ. Tượng đức Hộ Pháp với
khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, tay cầm kiếm trí tuệ
cắt đứt phiền não, vượt qua khổ đau, đạp lên
trên con rắn độc có ba đầu dưới chân, biểu tượng
của tam độc: tham sân si, không phải là một vị,
mà tượng trưng cho tất cả những người có công
với Chánh Pháp, là hạng người thứ nhứt nói trên.
Tiêu Diện Ðại Sĩ với khuôn mặt dữ dằn, lè lưỡi
phun lửa máu, đầu có đội ba ngọn núi, khẩu phún
xuất hỏa, đầu thượng tam sơn, không phải là một
vị, mà tượng trưng cho tất cả những người có
công giúp đỡ Chánh Pháp được sáng tỏ hơn, là
hạng người thứ hai nói trên. Bởi vậy cho nên,
chúng ta luôn luôn chân thành cảm niệm ơn đức
của cả hai hạng người nói trên, đã giúp đỡ chúng
ta tiến tu trên mọi phương diện.
Tóm lại, khi tu theo Phật, chúng ta không nên khởi vọng tâm, không nên
khởi vọng niệm, không mong cầu được điều này,
đắc điều kia, không cầu khẩn van xin khấn vái;
trái lại phải nên hiểu sâu luật nhân quả, khai
mở trí tuệ, hiểu suốt thiện ác. Nghĩa là, khi
mình gieo nhân bỏ điều ác, làm việc thiện, tức
là chúng ta có đủ phước báu thiện lành, chỉ cần
khai mở trí tuệ giác ngộ, đạt bản tâm thanh tịnh,
thì hưởng quả giải thoát khỏi vòng sinh tử luân
hồi. Đó là mục đích chính của đạo Phật. Trong
kinh sách có câu: Tam Nghiệp Hằng Thanh Tịnh
Đồng Phật Vãng Tây Phương, chính là nghĩa đó vậy.
Một
điều cần biết thêm, trong kinh sách, chư Phật và
chư Tổ có khuyên chúng ta, chỉ nên cầu nguyện
đời đời được gặp Chánh pháp, tránh xa tà pháp,
để tu hành đến khi giác ngộ và giải thoát, chớ
không nên mong cầu đắc thần thông khi chưa đắc
đạo. Tại sao vậy? Bởi vì, khi con người chưa đắc
đạo lại đắc thần thông, thí dụ như đắc thiên
nhãn thông hay thiên nhĩ thông, sẽ thấy được
chuyện xảy ra cách xa ngàn dặm, nghe được chuyện
xuyên sơn cách vách, thường là những chuyện bất
như ý, những chuyện mích lòng, chắc chắn con
người sẽ nổi tam bành lục tặc liền, vì chưa chưa
đắc đạo, nên không nhẫn nổi.
Có
thần thông trong tay, hay là hình thức quyền lực
của thế gian, con người sẽ khởi bất minh tâm, dù
là người tu nhưng chưa đắc đạo đòi tiêu diệt một
vài thành phần bất thiện nào đó, hay nghĩ đến
chuyện đánh gục hết lũ côn đồ ngang ngược hay
bọn tham quan ô lại, xóa sổ tất cả những kẻ xấu
ác trên đời, thế là hòa bình không còn, chiến
tranh xảy ra, thiên hạ phiền não, chúng sanh khổ
đau, hận thù tràn lan, bất ổn triền miên, tội ác
chất chồng, than oán ngút ngàn.
Đạo
Phật không chủ trương lấy thiện diệt ác. Đạo
Phật chủ trương chuyển hóa nghiệp ác thành
nghiệp thiện, chuyển hóa ba nghiệp chưa thanh
tịnh thành ba nghiệp thanh tịnh, chuyển hóa kẻ
hung ác thành người lương thiện. Đạo Phật chủ
trương đem lại niềm an lạc cho cá nhân, hạnh
phúc cho gia đình và hòa bình cho xã hội. Người
tu theo đạo Phật phải trưởng dưỡng tâm từ bi,
phát triển tánh sáng suốt, đạt minh tâm thì được
kiến tánh, cho nên không gây thù hận, không có
kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm hay hiểu lầm
mà thôi.
Cảm
thông và thương yêu là cửa ngõ an lạc và hạnh
phúc.
Từ bi
và trí tuệ là yếu tố giác ngộ và giải thoát.
Tất
cả đều ở ngay trên thế gian này.
Tỳ khưu
Thích Chân Tuệ
cutranlacdao@yahoo.com
|