Thiền Chữa Trị Thân Tâm
Nguyên tác:
Giáo sư
KTS SARAO
Việt dịch:
THIỆN TRI THỨC
“Bất
cứ dược phẩm nào được tìm ra trong thế giới, dù
nhiều và đa dạng, không có thứ nào bằng Pháp”
(trích từ Milindapanha).
Ngày nay, những
nguyên tắc và những thực hành Chánh niệm (sati)
và Thiền quán Minh sát (vipassanà) của Phật giáo
đã được áp dụng cho nhiều mặt phức hợp của đời
sống hiện đại. Ở nhiều quốc gia, ngành y đang
phối hợp những thực hành Thiền Phật giáo vào
nhiều mặt chữa trị.
Thoạt nhìn, có vẻ
đó là một phối hợp lạ thường - sự tu tâm ở tu
viện với khoa Sinh học duy vật, nhưng nhìn sát
sao hơn thì cả hai bên đều phát lộ tính tương
hợp sâu xa của chúng. Có những cách nhìn mới về
mối liên hệ giữa tâm và thân, cùng với những
kiểu mẫu mới về tình trạng khỏe mạnh. Giao diện
giữa Thiền định và chữa trị đáng để khám phá
thêm nữa.
Bây giờ sự giảm
thiểu căng thẳng (stress) dựa vào Thiền Minh sát
và Chánh niệm được thực hành như một hình thức
của Phật giáo nhập thế. Trong Tam tạng Pàli,
người ta có thể tìm thấy lặp đi lặp lại nhiều ẩn
dụ về chữa lành có thể áp dụng cho nhiều tình
huống khác nhau. Điều này chứng tỏ sự chữa lành
là một hệ thức nội tại trong toàn bộ sự tu tập
của Phật giáo. Theo nghĩa này, Đức Phật là một
đại y sĩ, do lòng bi cho sự an ổn của tất cả
chúng sinh, đã tìm ra và chia sẻ một phương cách
chữa bệnh cho căn bệnh gốc của đời người. Lời
dạy của Phật, tức là Pháp, là phương thuốc chữa
lành ấy. Chính xác hơn, đó là đơn thuốc mà mỗi
người bệnh phải dùng hợp với phần mình. Khi ấy,
Tăng già và cư sĩ là một xã hội giúp đỡ lẫn nhau
trên con đường lành bệnh.
Công thức Bốn
chân lý cao cả được đặt cơ sở trên truyền thống
y học. Chân lý thứ nhất (bệnh khổ) chỉ ra những
triệu chứng hiện bày của một phiền não ẩn tàng.
Sự có mặt của già và chết, lo sầu, khổ não và
tuyệt vọng cho thấy tất cả chúng đều thoát thai
từ cùng một hoàn cảnh nền tảng: “dukkha” (khổ),
khổ đau hay sự bất toại nguyện của thân phận con
người. Một người chữa bệnh cũng như một người
bệnh, không thể bắt đầu tiến trình chữa lành nếu
không chẩn đoán căn bệnh. Chân lý thứ hai (những
nguyên nhân của bệnh khổ) gợi ý vai trò của y sĩ
như là người chẩn đoán. Chỉ khi hiểu nguyên nhân
gây bệnh mới có thể chạy chữa. Phân tích của
Phật pháp về tâm và thân cho thấy nguyên nhân là
do tham muốn (tanhà). Chân lý thứ ba (hết bệnh
khổ) là một tiên lượng đầy hy vọng: loại bỏ khao
khát sẽ thành loại bỏ khổ, như sự lành bệnh thân
tâm của Đức Phật dưới cội bồ đề, năng lực khỏe
mạnh của Ngài hơn bốn mươi lăm năm sau đó của
công cuộc thuyết pháp và cứu độ.
Chế độ chữa trị
được trình bày trong chân lý thứ tư của Phật
[con đường tám ngành (dẫn đến khỏe mạnh)] kèm
theo đơn thuốc của nhiều loại điều trị. Có những
khác biệt lớn trong những triệu chứng cá nhân
của chỉ một loại bệnh: mỗi người bệnh biểu hiện
những triệu chứng khác nhau trên tiến trình chữa
trị, mạnh yếu khác nhau, có những thái độ khác
nhau và ở trong những môi trường khác nhau. Y sĩ
giỏi sẽ cảm nhận những tình huống riêng biệt và
điều chỉnh chiến thuật một cách sáng tạo, dù ông
ta vẫn rút ra từ những nguyên lý đã được chứng
nghiệm và áp dụng một cách mềm dẻo. Suốt hơn
2500 năm, Phật giáo có sự đồng thuận chung về ba
chân lý đầu (bệnh, nguyên nhân của bệnh, hết
bệnh), nhưng có sự đóng góp và cách tân nhiều
cách khác nhau vào sự thực hành chân lý thứ tư -
nghệ thuật chữa lành chính mình.
Một cuộc bàn luận
được kể lại trong kinh Màgandiya (Trường Bộ kinh)
giữa Đức Phật và du sĩ Màgandiya về bản chất của
sức khỏe. Có một người bị bệnh cùi, sự thống khổ
cực độ của anh chỉ dịu bớt khi đốt tay chân bằng
than đỏ. Anh tiếp tục cào gãi và đốt thân để có
được sự nhẹ bớt tạm thời, dù hành động ấy làm
cho hoàn cảnh anh tệ hơn, trầm trọng hơn. Dù mọi
người khác đều cho lửa là gây đau đớn, chỉ có
người bệnh cùi cho rằng lửa là nguồn thoát khổ.
Thời gian sau, anh được chữa lành nhờ một y sĩ
cho thuốc, lúc đó anh không còn thích đưa tay
chân vào lửa nữa. Nếu những người mạnh nắm lấy
anh và đưa anh đến gần lửa, anh sẽ chống cự dữ
dội, vì bây giờ anh kinh nghiệm rằng lửa gây đau
đớn.
Câu chuyện này
được trình bày trong bối cảnh một đời trước của
Đức Phật, khi Ngài là một hoàng tử, Ngài đã tìm
sự nhẹ bớt khỏi những rắc rối trong cuộc sống
bằng cách theo đuổi dục lạc. Từ sự thức tỉnh và
cuộc đời từ bỏ sau đó, Ngài thấu hiểu rằng những
theo đuổi như thế không bao giờ đem lại sự nhẹ
bớt mà còn làm cho tình cảnh chúng ta xấu thêm.
Một trong những bài học quan trọng từ những sự
việc này là một sự hiểu biết tinh tế hơn về cái
gọi là “sức khỏe”, và nó thích hợp với sự bàn
luận của chúng ta về những viễn cảnh áp dụng
Phật giáo vào lĩnh vực y học hiện đại.
Lời khuyên cho
Màgandiya tập trung vào câu kệ sau đây: “Cái
lớn nhất trong mọi sở đắc là sức khỏe, Niết bàn
(sự chấm dứt khổ) là lạc phúc lớn nhất”. Du
sĩ Màgandiya ca ngợi bài kệ này là có ý
nghĩa vi diệu, nhưng Đức Phật tiếp tục hỏi
Màgandiya nghĩ gì khi ông dùng chữ “sức khỏe”.
Du sĩ bấy giờ dùng tay xoa tứ chi mình và nói:
“Sức khỏe là thế này… vì bây giờ tôi khỏe khoắn
và hạnh phúc và không có gì làm phiền não tôi”.
Bằng những loạt chuyện và những ẩn dụ khác trong
đó có chuyện một người mù được một y sĩ chữa hết
mù lòa, Đức Phật cẩn thận dắt dẫn Màgandiya đến
một thấu hiểu sâu xa hơn về sức khỏe là gì. Nó
không chỉ là không có khổ sở trong thân vào lúc
đặc biệt nào đó, mà hơn nữa đó là một kinh
nghiệm an lạc sâu xa khi tâm không còn bám víu
vào vui hay khổ.
Bản thân sự đau
đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất
cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh
nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường, cũng
không bảo đảm cho thảnh thơi hạnh phúc. Theo
nghĩa đầy đủ nhất, sức khỏe bao trùm một cảm
thức toàn thể nguyên vẹn, bao gồm cả vui - khổ
và không tùy thuộc vào có hay không khổ hay vui.
Vẫn thường thấy có người bị bệnh kinh niên nhưng
căn bản là khỏe mạnh và cũng có người theo đuổi
thành công lạc thú nhưng căn bản là bệnh hoạn.
Một thí dụ cho trường hợp trước là một người hài
lòng, biết cách hài hòa, có cuộc sống đầy đủ
nhưng có bệnh mãn tính; và trường hợp sau là một
người nghiện, có những phút bay bổng nhưng với
cái giá kinh khủng cho thân thể và cho phẩm giá
làm người. Sự có mặt của đau đớn trong trường
hợp đầu tự nó không đủ để xem người bệnh là
không có sức khỏe; và kinh nghiệm lạc thú của
trường hợp sau không đủ để xem người bệnh này là
khỏe mạnh. Chính xác sức khỏe là như Đức Phật đã
giúp Màgandiya hiểu ra, đó là một quan niệm rộng
hơn chúng ta thường nghĩ. Đức Phật khuyên
Màgandiya “thực hành phù hợp với Chánh pháp”,
một câu nói bao gồm cả đạo đức, Thiền định và
Thiền quán. Ở trung tâm của phương thức chữa
lành không phải là một loại thuốc đặc biệt nào,
mà là sự thấu hiểu rằng nhiều thứ dùng để làm
nhẹ đi trước kia chỉ là “những trò vô bổ” làm tệ
hại thêm khối phiền não. Điều thiết yếu là
Màgandiya đã tự thấu hiểu điều này, chỉ khi ấy
ông mới có thể tháo gỡ sự bám víu vốn là gốc của
khổ đau. Như kinh nói:
"Khi thực hành theo Chánh pháp, ông sẽ tự
biết và thấy như vầy: Đấy là những trò vô bổ;
nhưng ở đây chúng dứt diệt không còn chút dấu
vết. Với sự dừng diệt bám víu… buồn phiền, thống
khổ, đau đớn, sầu muộn và tuyệt vọng dừng diệt.
Đó là sự dừng diệt của toàn bộ khối khổ đau”.
Đức Phật nhận rõ
bám víu, nắm giữ là thói quen đáp ứng của chúng
ta đối với tham muốn và khao khát, cũng là
nguyên nhân bệnh tật của chúng ta. Bám vào sự
tiếp tục của lạc thú hay bám vào sự ngừng diệt
của đau đớn đều không tránh khỏi dẫn đến khổ đau.
Bởi vì những đối tượng của mọi bám luyến trong
bản thân chúng đều biến đổi, không thỏa mãn, và
rốt ráo không phải là một cái gì chúng ta có thể
thực sự sở hữu. Điều đáng chú ý nơi sự phân tích
này là nó phát hiện khá chính xác cái điểm nơi
đó hoạt động thân tâm tự nhiên của con người
chuyển đổi thành bệnh tật. Nội dung của kinh
nghiệm chúng ta hoàn toàn lành mạnh - quang cảnh
và âm thanh, hương, vị, xúc giác làm nên dữ kiện
cho thế giới kinh nghiệm của chúng ta thì tự
chúng không bao giờ là những nguyên nhân của khổ
đau.
Tương tự, những
tư tưởng và những tri giác chỉ gởi những thông
tin để biết, chúng không vui hay khổ. Tất cả
chúng đều bình thường (vâng, thậm chí cả kinh
nghiệm đau đớn). Nhưng chúng ta đáp ứng kinh
nghiệm như thế nào, chúng ta đầu hàng đến mức độ
nào động lực theo đuổi lạc thú và trốn tránh đau
đớn bằng cách bám víu theo mọi cách - đấy là
điểm cốt tử quyết định hoặc chúng ta khổ đau
hoặc được tự do chỉ tỉnh giác với kinh nghiệm đủ
loại. Chính trong nghĩa này mà một số các vị
Thầy hiện đại nói: “Đau
đớn thì không thể tránh, nhưng khổ não thì có
thể chọn lựa”.
Theo truyền thống,
việc người ta đáp ứng như thế nào với kinh
nghiệm (đau đớn hay vui thích, mạnh hay yếu) tùy
thuộc vào sự có mặt - trong mỗi khoảnh khắc -
của những yếu tố vô minh hay trí tuệ. Thực hành
Phật giáo là học nhiều cách để vượt qua hoặc né
tránh sức mạnh của vô minh tiềm ẩn và dần dần
xây dựng những cái thấy và thức tỉnh nhỏ để khai
mở trí tuệ. Với sự tiến bộ này, chúng ta càng
ngày càng khéo léo hơn trong công việc thách
thức là học sống thoát khỏi khổ đau.
Nhà nghiên cứu
tiên phong Hans Selye định nghĩa stress là “sự
đáp ứng không đặc hiệu của cơ thể với bất kỳ áp
lực hay đòi hỏi nào”. Như Kabat Zinn nêu lên,
“những cố gắng hiện thời của chúng ta để đáp ứng
với thay đổi và áp lực, bất kể chúng có nguồn từ
đâu, tự chúng sẽ dẫn đến suy sụp và bệnh tật nếu
chúng không đầy đủ hay không ổn định”. Hơn nữa,
Kabat Zinn dẫn ra từ Seligman, “không phải do
cái gây ra căng thẳng mà do bạn nhận nó và xử lý
nó như thế nào sẽ quyết định đưa đến stress hay
không”. Nói cách khác, thế giới không nhất thiết
là một nơi chốn của stress, nhưng có nhiều cách
sống không lành mạnh của con người trong thế
giới sẽ dẫn đến tăng trưởng stress bên trong
chúng ta.
Một phân biệt
khác của truyền thống cổ và cả y học hiện đại về
giảm stress là sự khác biệt giữa khổ đau thân
thể và khổ đau tâm thức. Như Tăng Chi Bộ kinh
chỉ ra: “Có hai thứ bệnh… bệnh thân và bệnh
tâm. Có những người có thể thoát khỏi khổ về
thân trong một năm, hai năm… hay thậm chí cả
trăm năm. Nhưng khó tìm thấy những người có thể
thoát khỏi bệnh tâm dù chỉ một khoảnh khắc”.
Trong cái nhìn
Phật giáo, như câu chuyện Màgandiya, tất cả
chúng ta đều khổ đau vì những quan niệm sai lầm
nền tảng về chính chúng ta, về thế giới và bản
chất của hạnh phúc hay sức khỏe. Chính trong
nghĩa này mà chúng ta có thể bị xem là có “bệnh
tâm”, dù chúng ta may mắn có sức khỏe mạnh mẽ
suốt cả đời. Dĩ nhiên, bệnh tâm lại do tham bám
biểu lộ trong từng giây phút của ý thức.
Bệnh viện giảm
Stress của Kabat Zinn ở Worcester,
Massachusetts, Mỹ, thường đối mặt với tình huống
nghịch lại - cố gắng giúp đỡ bệnh nhân với những
vấn nạn thân thể không thể đảo lại được, như mất
một tay chân hay một chẩn bệnh kết cục, khám phá
trong chính họ kinh nghiệm toàn thể nguyên vẹn
cho phép họ khỏe mạnh trong tâm. Kabat Zinn nói,
“Người phải cắt tay… hay người phải đối diện với
cái chết vì bệnh không thể chữa đều căn bản vẫn
là một toàn thể nguyên vẹn… Chính tiến trình đi
tới thỏa thuận với sự việc như chúng là đã bao
gồm tiến trình chữa lành”. Chúng ta đã quá quen
thuộc với quan niệm rằng sức khỏe phải hoàn toàn
dựa vào trạng thái thân thể, đến độ thường phải
bị dồn vào hoàn cảnh cùng cực của nhiều bệnh
nhân như vậy mới bắt đầu tưởng tượng được là
hoàn toàn không phải thế. Sức khỏe thân thể quả
thật là phước lớn, nhưng nếu không còn có thể
lựa chọn nó được, thì tự do vẫn còn để “đi tới
thỏa thuận với sự việc như chúng là” và việc này
tạo nên sức khỏe tâm thức. Điều mà hai quan điểm
này có chung không chỉ là chúng phân biệt giữa
hai chiều kích thân tâm, mà ý tưởng sâu xa hơn
là không cần một nối kết tạm bợ giữa hai cái.
Chúng ta phải cẩn
thận lưu ý, nói thế không phải là mỗi hệ thống
tư tưởng sẽ tán thành một chủ nghĩa nhị nguyên
thân/tâm. Thật sự cả hai cách nhìn đều nhấn mạnh
vào sự tương liên chặt chẽ của tâm và thân. Thân
và tâm tiếp tục ảnh hưởng lẫn nhau theo nhiều
cách, nhưng chỉ vì thân khỏe mạnh không có nghĩa
là tâm khỏe mạnh (trong trường hợp trước) và chỉ
vì thân bệnh không có nghĩa là tâm cũng bệnh
(như trường hợp sau). Cả hai tuyên bố này ngược
với cảm nhận của những văn hóa tìm cách gắn
chúng với nhau, và trong mỗi trường hợp đều có
sự chuyển hóa sự bị quy định của người bệnh. Câu
kinh trích dẫn ở trên thậm chí còn đi xa hơn khi
cho một thí dụ về sức khỏe của tâm, sẵn sàng và
có khả năng “làm quy phục những cảm nhận đau đớn
của thân, chúng gây thống khổ, hành hạ, làm xao
lãng và bất ổn, khiến cho đời sống bay hơi”.
Lời dạy của Đức
Phật cho một người đau đớn là hãy huấn luyện
chính mình: “Dù thân tôi có bệnh, tâm tôi vẫn
không bệnh” (Samyutta Nikaya). Thế nên cách chữa
cho tâm, dù đang đương đầu với khổ đau của thân,
đơn giản chỉ là tách lìa, không đồng hóa với
những uẩn của kinh nghiệm, xem chúng không phải
là “của tôi”, mà là “không phải của tôi”. Với sự
không sở hữu, không bám luyến, không nắm chấp
này, người ta sẽ không bị nhiều ảnh hưởng do
những biến đổi không thể tránh mà kinh nghiệm
thân tâm phải chịu đựng. Nếu bám chấp vào nội
dung của kinh nghiệm, chúng ta sẽ đau khổ vì sự
không dứt và biến chuyển của nó. Nhưng nếu chúng
ta có thể học để an trụ trong sự tỉnh giác về
tiến trình của kinh nghiệm, ghi nhận một cách
không dính líu trò chơi sanh khởi, đổi thay và
đi mất của hiện tượng, bấy giờ một tâm thức khỏe
mạnh khởi lên trên sự khổ não của thân. Kabat
Zinn cũng nói tương tự, trong khi làm việc với
các bệnh nhân mãn tính: "Khi thực hành chiếu
soi (scan) thân hay bất kỳ kỹ thuật chánh niệm
nào khác, bạn ghi nhận rằng hễ khi bạn đồng hóa
với những tư tưởng hay cảm giác trong thân hay
với chính toàn thân thể, lúc ấy có nhiều sự hỗn
loạn và đau khổ hơn là khi bạn an trụ như là
người quan sát không phê phán tất cả mọi thứ đó…
Để mặc cho chúng đến rồi đi, bạn có thể đến một
điểm mà mọi quan niệm tan biến vào trong tĩnh
lặng và chỉ có cái tỉnh giác… Trong sự tĩnh lặng
này, bạn đến chỗ biết rằng dù bạn là ai, “bạn”
nhất định không phải là thân thể này, dù nó là
của bạn để sử dụng… Khi học được điều này, mối
tương quan của bạn với đau đớn trong thân sẽ
thay đổi sâu xa".
Về Thiền định làm
việc để chữa lành khổ đau của tâm, có thể nói
thêm rằng tiến trình chữa cho thân được ảnh
hưởng tốt bởi sự thực hành chánh niệm tỉnh giác.
Ngày nay có sự lưu tâm đáng kể trong y học khi
so sánh nhóm người có tích cực đưa tâm mình vào
tiến trình chữa bệnh cho thân với nhóm chỉ dựa
vào thuốc men theo truyền thống. Có vẻ nhóm
trước lành nhanh hơn và khỏi hẳn nhiều hơn.
Một giải thích là
quan điểm cho rằng stress gây áp lực mạnh mẽ lên
hệ thống chữa lành tự nhiên của thân, thế nên
cái gì làm giảm ảnh hưởng của stress lên thân sẽ
giúp cho thân tự chữa lành một cách tự nhiên.
Chắc chắn nếu stress làm yếu hệ miễn dịch sẽ làm
chúng ta bệnh và có lẽ sự loại bỏ được stress sẽ
làm cho thân thể dễ dàng tự phục hồi hơn sau khi
đã bị thương tổn. Kabat-Zinn thảo luận quan điểm
này trong sách của ông, nói về sự huấn luyện cho
các bệnh nhân của ông đáp ứng với stress bằng
tỉnh giác thay vì phản kháng lại, vẫn thường gây
ra stress. Đây là một lãnh vực háo hức trong y
học hiện giờ và vẫn còn nhiều điều cần học về cơ
chế của hệ miễn nhiễm kích thích hay cấm chỉ.
Không có gì huyền bí đặc biệt về tiến trình này,
trong chừng mực mà nó cắm rễ vào lý thuyết sinh
học quy ước (có lẽ ngoại trừ giải pháp triết học
về khả năng của tâm ảnh hưởng lên hệ thống của
thân nhiều như thường thấy).
Cách giải thích
tâm chuyển hóa thân theo Kabat Zinn dựa vào ý
niệm tính toàn vẹn và tính liên kết. Ông nói: "Khi
chúng ta dùng từ chữa lành để diễn tả những kinh
nghiệm của người bị stress ở trong bệnh viện,
điều đó trước hết là họ đang trải qua một chuyển
hóa về quan điểm… Nó là một xa lìa liên tục khỏi
sự phân mảnh và cô lập đối với tính toàn thể
nguyên vẹn và tính liên kết. Trong những giây
phút tịch lặng, bạn đi đến chỗ thấu hiểu rằng
bạn vốn là toàn thể nguyên vẹn, vốn là đầy đủ
trọn vẹn trong bản thể bạn, dù có thể thân thể
đang đau".
Chính sự thực
hành Thiền định cho phép chúng ta tiếp xúc với
những viễn cảnh tốt đẹp này. Làm yên lặng tâm
thức sẽ giảm thiểu những năng lực phân mảnh và
cho phép chúng ta kinh nghiệm sự không có xung
đột, đó là đặc trưng của sự biểu lộ nơi mình
tính toàn thể nguyên vẹn. Thiền định cũng cho
phép đi vào những cơ chế thông tin phản hồi khác
nhau của ý thức và vô thức, khiến cho chúng ta
nối kết trực tiếp nhiều hơn với mọi tiến trình
thân tâm. Kabat Zinn xem những kinh nghiệm tính
toàn thể nguyên vẹn và tính liên kết có thể đạt
được nhờ chánh niệm như là sự chữa lành nội tại
bẩm sinh. Có lẽ chịu ảnh hưởng của nền Thiền học
của mình, ông quan niệm trạng thái tự nhiên của
con người là một trạng thái vốn sung mãn và hạnh
phúc. Những lực lượng của bệnh tật khởi sanh khi
chúng ta tách lìa với trạng thái sung mãn và
hạnh phúc này, và Thiền cho chúng ta cách trở về
với nó.
Có lẽ cần nói
rằng nhiều sự giải thích ảnh hưởng chuyển hóa
của tâm lên thân, ít nhất trong truyền thống
Phật giáo, được tìm thấy trong chính sự liên kết
tâm-thân. Vào thời cổ ở Ấn Độ, Đức Phật đã chống
lại quan điểm thống trị bấy giờ cho rằng linh
hồn trú ngụ nơi thân thể, và bác bỏ nhiều thực
hành yoga và khổ hạnh cổ vũ phải phân lìa hai
cái đó. Đức Phật nói, một cách căn bản, tâm và
thân là hai mặt của cùng một hiện tượng. Chính
xác hơn là xem con người như là một cơ chế tâm
thân (nàma-rùpa, danh sắc), gồm một uẩn vật chất
(rùpa, sắc) mà về nguyên tắc không thể tách lìa
bốn uẩn kia (vedanà, sanna, sakhàra, vinnãna:
thọ, tưởng, hành, thức). Từ viễn cảnh này, sự
chuyển hóa của tâm lên thân không còn là bí ẩn,
vì trong bản chất những chiều kích tâm và thân
của con người thì hoàn toàn tương thuộc, liên
lập.
Hệ thần kinh
trung ương rốt cuộc phân phối khắp toàn thân.
Chúng ta có thể dễ dàng kiểm chứng với những
thao tác đơn giản như chỉ việc chú tâm vào một
phần riêng biệt nào của thân sẽ đưa đến kết quả
thay đổi tức thì: cảm nhận về phần thân thể đó,
và những sự thay đổi về nhiệt độ, áp lực máu…
Tương tự, chúng ta có thể lưu ý theo nhiều cách
sự tác động của môi trường lên thân thể tương
ứng với những thay đổi của tâm. Thế nên chúng ta
nên giã từ quan niệm nhị nguyên về thân tâm, mà
xem thực thể thân tâm là một cơ chế đơn nhất.
Bấy giờ có lẽ chúng ta sẽ ít nói tâm thay đổi
thân như thế nào và thân thay đổi tâm như thế
nào, và thấy một tiến trình hợp nhất cùng chuyển
hóa. Trong truyền thống Phật giáo, năm uẩn là
tương thuộc và không thể tách rời, do đó giáo lý
thường nói đến cả năm cùng một lúc.
Theo một giải
thích truyền thống của Phật giáo, Thiền có ích
cho sự chữa lành thân.
Thiền phân
biệt thành hai loại, yên tĩnh (samatha, Thiền
định hay Thiền chỉ) và nội quán (vipassana,
Thiền quán hay minh sát). Thiền định hay
Thiền chỉ là tập trung tâm vào chỉ một đối tượng
của sự chú ý, bỏ hết các thứ khác. Khi tâm có
thể giữ sự chú ý vững chắc trên một đối tượng
với càng lúc càng ít hơn sự gián đoạn, cuối cùng
nó an định rất vững chắc, rất tập trung và ở yên
trong định. Bước đầu trong tiến trình này, thân
sẽ kinh nghiệm như tắm trong những cảm giác nhẹ
nhàng, lạc phúc; nhưng ở những trạng thái nhập
định sâu hơn, mọi kinh nghiệm thân thể đều dừng
và hỷ lạc chuyển hóa thành những trạng thái thản
nhiên (xả) sâu xa. Một trong những kết quả của
loại Thiền an định này, như người ta có thể
tưởng tượng, là những kinh nghiệm đau đớn thể
xác có thể tạm thời vượt qua. Thiền quán (minh
sát) đánh thẳng vào tâm điểm của nguyên nhân gây
khổ đau - hai nhân tố khao khát và vô minh - đó
chính là sự chữa trị căn bản nhất. Ở đây tâm
cũng tập trung vào một phương diện riêng biệt
của kinh nghiệm (một cảm giác thuộc thân, một
cảm giác, một tư tưởng…), nhưng những đối tượng
của sự tập trung này cho phép thay đổi một cách
tự nhiên với sự khai mở của kinh nghiệm trong
tính toàn bộ của nó. Chẳng hạn, sự chú ý trọn
vẹn được đưa đến một cảm giác thân thể, nhưng
tức thời tiếp theo đó có thể tập trung vào một
cảm nhận, rồi một tư tưởng… trong những hoàn
cảnh tự nhiên. Thiền quán làm mạnh yếu tố niệm
(sati), nhờ đó chúng ta hoàn toàn hiểu biết bất
kỳ đối tượng tinh tế nào. Kết quả của thói quen
chánh niệm này thì vi tế hơn thực hành tập trung
và làm sáng tỏ và cuối cùng giải tỏa những tiến
trình sâu kín, nhờ đó chúng ta tạo ra khổ đau
khi mỗi khoảnh khắc kinh nghiệm sanh khởi. Chánh
niệm tự nó không phải là sự chữa cho khổ đau,
nhưng nó là một công cụ mạnh mẽ để đi vào sự
chữa lành.
Học cách chú ý
vào kinh nghiệm trong từng khoảnh khắc của thân
và tâm cuối cùng sẽ phát hiện nhiều bí mật của
động cơ thân tâm. Khi hiểu biết về chính chúng
ta thay đổi, một số thói quen đáp ứng của chúng
ta cũng bắt đầu chuyển hóa. Thấy tính biến đổi
nội tại của kinh nghiệm, chúng ta bớt bám nắm
vào mỗi khoảnh khắc của nó. Thấy tính thay đổi
và tính không có bản chất của cái mà chúng ta
vẫn quen gọi là “chính tôi”, chúng ta có thể xem
mình bớt trọng đại hơn và sau cùng cái gì xảy ra
cho chúng ta thì kém cá nhân hơn. Thấy rằng mọi
thỏa mãn lạc thú thì không tránh khỏi chỉ là tạm
thời, chúng ta dần dần bớt hy vọng vào những
hành vi đem lại thích thú. Nếu nhìn kỹ vào kinh
nghiệm trực tiếp của mình, chúng ta sẽ có thể
nhận biết sự vô thường của nó (anicca), sự vô
ngã (anattà) và sự bất toại nguyện (dukkha) của
nó, và Thiền quán là phương tiện để có những cái
thấy thấu suốt này. Kết quả của việc tự mình
thấy những tính chất này của kinh nghiệm, chúng
ta sẽ tháo lỏng ảnh hưởng của bám chấp, đều gây
ra khổ đau trong đời sống. Đây quả là cẩm nang
của việc làm giảm bớt stress trong thời này như
được dạy và được thực hành trong những chương
trình, mà một trong số đó là ở Đại Học Trung Tâm
Y Khoa Massachusetts do Kabat Zinn và các đồng
nghiệp tiến hành.
Phương pháp chánh
niệm để điều trị tập trung vào việc thay đổi
tương quan của chúng ta với kinh nghiệm về khổ
đau của mình, hơn là thay đổi tính chất của nỗi
khổ thân thể. Sự kiện thực hành chánh niệm ở đời
sống bên trong hơn là những biểu lộ bên ngoài
không nhất thiết làm cho nó kém đi là một hình
thức của Phật giáo dấn thân. Khác với những hình
thức khác của Phật giáo nhập thế, nó không tương
tác với những cơ cấu áp bức của xã hội, hay với
những người gây ra chiến tranh, hay với những
người xâm phạm nhân quyền hay phá hoại môi
trường. Y học hành vi đương đại tập luyện cho
người ta không chỉ dấn thân vào bệnh tật của họ,
mà sâu xa hơn, dấn thân vào những thái độ chấp
trụ và sự bị điều kiện hóa của họ. Sự sợ hãi đau
đớn, sự khủng bố của cái chết phải tới, sự mất
kiểm soát trên cuộc đời mình, và rất nhiều mối
khổ đau khác - tất cả chỉ được giải tỏa bằng
thực hành Thiền. Vấn đề còn lại cho mỗi người
bệnh là vật lộn theo cách riêng của họ với những
lực lượng trong chính họ, chúng làm mạnh thêm
hay yếu đi năng lực của người chịu đựng trong
cuộc sống của họ.
|