ĐÔI NÉT VỀ TỈNH BÌNH ĐỊNH
ĐỊA LÝ
Diện tích: 6.076
km2
Dân số: 1.545.300
người
Tỉnh lỵ:
Thành phố Quy Nhơn
Các huyện: An Lão,
Hoài An, Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Vĩnh Thạnh,
Tây Sơn, Vân Canh, An Nhơn, Tuy Phước.
Dân tộc: Việt (Kinh),
Chăm, Bana...
Là một tỉnh duyên
hải miền Trung, phía Bắc giáp Quảng Ngãi, Tây
giáp Gia Lai, Nam giáp Phú Yên, Đông giáp biển
Đông. Địa hình Bình Định đa dạng có vùng núi,
vùng giáp núi, vùng đồng bằng và vùng bãi bồi
ven biển. Bờ biển Bình Định dài hơn 100 km (63
miles) với nhiều đảo lớn, nhỏ ngoài khơi. Tỉnh
có suối nước khoáng ở huyện Phù Cát.
Bình Định cũng bị
bao phủ bởi dãy Trường Sơn về phía Tây, có các
nhánh núi đâm ra biển khiến địa thế trở nên hiểm
trở. Các dãy núi trùng điệp nhưng không cao lắm,
thoai thoải dần về phía Đông:
- Dãy Thạch Tấn
ngăn Bình Định với Quảng Ngãi, hai tỉnh thông
nhau nhờ đ èo Bình
Đê. Trong dãy này có ngọn Thạch Tấn, nơi giao
tranh của quân Nguyễn Ánh và Tây Sơn trước đây.
Xuống phía Nam, dãy Trường Sơn chia làm nhiều
nhánh, gồm những ngọn núi không cao lắm, đây là
nơi cư ngụ của đồng bào Thượng.
- Dãy An Lão có
các ngọn núi Cheu cao 952 m (2,856 ft), Teup cao
960 m (2,880 ft), Yon cao 960 m (2,880 ft).
- Dãy Kinh Sơn
nằm trong quận Hoài Ân bao gồm những ngọn núi
cao khoảng 500 m (1,500 ft) và đỉnh
Kim Sơn cao 800 m (2,400 ft).
- Dãy Vinh Thạnh
nối với dãy Kim Sơn bởi đ èo
Giốc Đót, có những ngọn núi cao với địa thế hiểm
trở như hòn Bong, hòn Heo và hòn Chuông.
- Dãy Triều Châu
là phần cuối của dãy Vinh Thạnh, phủ toàn cát
trắng, được định làm ranh giới giữa Bình Định và
Pleiku bởi đ èo
Măng Giang (Mang Yang). Dãy Triều Châu còn gọi
là dãy Tây Sơn vì là nơi tụ binh của anh em nhà
Tây Sơn trước đây. Trong quận An Túc có các đỉnh
Konlak cao 1.720 m (5,169 ft) và Kon Bonia cao
1.568 m (4,704 ft).
- Dãy Nam Sơn (còn
gọi là vùng núi Binh Sau), có các hòn Ông, hòn
Bà, núi Am và hòn An Tượng. Dãy này ngăn chia
Bình Định với Phú Yên, hai tỉnh này thông nhau
bởi đ èo
Cù Mông. Trong quận Phù Cát có núi Bà cao 1.100
m (3,300 ft).
Các sông trong
tỉnh đều xuất phát từ dãy Trường Sơn, gồm ba
sông lớn là Lại Giang, sông Côn và sông Ba:
- Sông Lại Giang
(còn gọi là Lại Dương), có hai nguồn: nguồn An
Lão chảy theo hướng Nam gặp nguồn Kim Sơn ở Phú
Văn. Nguồn Kim Sơn có nhiều nguồn nước hợp nhau
ở Xuân Sơn tạo thành. Rồi chảy theo hướng Đông -
Bắc, gặp nguồn An Lão tại Phú Văn. Tại Phú Văn,
hai nguồn trên hợp lại thành sông Lại Giang chảy
ra biển qua cửa An Giũ.
- Sông Ba, phát
nguồn từ vùng núi ranh giới phía Tây - Bắc của
Bình Định với hai tỉnh Kontum và Quảng Ngãi, rồi
chảy dọc theo hướng Bắc - Nam qua các tỉnh Phú
Bổn và Phú Yên. Sông ba có một số phụ lưu lớn
như sông Dak Katung, sông Dak Pokor...
- Sông Côn lớn và
là sông quan trọng nhất tỉnh, dài 35 km (22
miles), cũng phát nguồn từ vùng núi biên giới
của ba tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Kontum. Từ
nguồn đến Định Quang, sông chảy theo hướng Bắc -
Nam và được
gọi là suối Kron vì hẹp và ít nước. Từ Định
Quang xuống Thượng Giang, sông được gọi là Hà
Giao. Từ Hữu Giang và Tả Giang ra đến cửa biển,
sông mới chính thức gọi là sông Côn. Từ Phú
Phong đến An Thái, sông chảy theo hướng Tây -
Đông và chia làm hai nhánh sông Bắc Phái và Nam
Phái, hai nhánh này đều đổ ra cửa Thị Nại. Phụ
lưu quan trọng nhất là sông Đá Hàng giúp cho
sông Côn mở rộng ra, lượng nước dồi dào thêm.
Ngoài ra, sông La
Tinh cũng đáng kể, phát sinh từ Hội Sơn thuộc
quận Phù Mỹ. Từ nguồn đến Vạn Ninh, sông tiếp
nhận nhiều nguồn nước suối từ các ngọn núi và
cũng tại đây tách làm hai nhánh là sông Con và
sông Cái. Sông Con chảy qua Kiên Trinh, An Lương,
An Xuyên rồi đổ vào đầm Đạm Thủy. Sông Cái chảy
qua Phú Hội, An Mỹ, An Bình và cũng đổ vào đầm
Đạm Thủy. Nguồn Vạn Ninh cách đầm Đạm Thủy
khoảng 12 km (8 miles).
Bờ biển Bình Định
dài 100 km (63 miles), gập ghềnh, có nhiều cửa
biển như Thiện Chánh, Cà Công, Hà Rá, Phú Thứ,
Đề Gi... Cảng
Quy Nhơn là thương cảng quan trọng.
Bình
Định có hai mùa: mùa nắng từ tháng Hai đến tháng
Chín Tây lịch, mùa mưa từ tháng Mười đến tháng
Một Tây lịch (thường có bão lụt). Hai quốc lộ 1,
19 và liên tỉnh lộ 6 là những đường giao thông
quan trọng, nối liền Bình Định với những tỉnh
khác. Tỉnh có hai phi trường ở
Quy Nhơn và An Túc.
Bình Định có
nhiều đặc sản nổi tiếng gần xa như: tơ lụa, yến
xào, tôm, cá, gỗ quý, trầm hương dầu thực vật,
gạo, đá ốp lát và hàng thủ công mỹ nghệ.

bản đồ hành chánh tỉnh Bình Định
(click vào đây để xem bản đồ lớn hơn )
LỊCH SỬ
Đất Bình Định xưa
thuộc bộ Việt Thường, một trong 15 bộ của nước
Văn Lang. Đời Tần là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng
quận, đời Hán là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật
Nam. Năm 137, một thổ dân là Khu Liên chiếm đất
này tự xưng là Lâm Ấp Vương. Đời nhà Tùy lấy lại
đặt làm quận Xung Châu, sau đổi tên là quận Lâm
Ấp gồm bốn huyện Kim Sơn, Tương Phố, Giao Giang
và Nam Cực. Đến đời Đường, quận này được đổi làm
Châu Lâm gồm ba huyện Kim Long, Hải Giới và Lâm
Ấp.
Đầu thế kỷ thứ 9,
vua Chiêm Thành chiếm đất này, rồi dời kinh đô
từ Quảng Nam vào Bình Định và đặt tên cho kinh
đô mới là Đồ Bàn (Vijara), còn gọi là Chà Bàn.
Đến năm 1470, vua Lê Thánh Tông chiếm được thành
Đồ Bàn. Miền đất này được sát nhập vào đạo Quảng
Nam, trở thành phủ Hoài Nhơn gồm ba huyện Bồng
Sơn, Phú Lý và Tuy Viễn thuộc Quảng Nam.
Năm 1602, thời
Nguyễn Hoàng, Hoài Nhơn đổi thành
Quy Nhơn. Kể từ đây, địa danh
Quy Nhơn đã được ghi vào lịch sử với biết
bao thăng trầm qua những trận đánh vô cùng khốc
liệt.
Năm 1771, nhà Tây
Sơn khởi nghĩa. Năm 1773, Nguyễn Nhạc đắp thêm
thành Đồ Bàn, đặt tên là Hoàng Đế Thành. Tỉnh
Bình Định, đất
Quy Nhơn đã sản sinh một đại anh hùng của
dân tộc, đó là vua Quang Trung Nguyễn Huệ, người
đã đánh đuổi giặc nhà Thanh ra khỏi bờ cõi vào
mùa Xuân Kỷ Dậu 1789, với chiến thắng Đống Đa
lừng danh lịch sử.
Vua anh hùng có
tướng anh hùng. Quận Bình Khê, làng Xuân Hòa,
quê anh thư Bùi Thị Xuân, vị nữ tướng can trường
đã cùng với các tướng đầu tiên vào giải phóng
thành Thăng Long. Làng Phú Mỹ, quê anh hùng Võ
Văn Dũng, vị tướng tài ba trong trận đại phá
quân Thanh.
Nói đến cuộc khởi
nghĩa Tây Sơn, phải nhắc đến làng Tây Sơn trên
cao nguyên An Khê, căn cứ địa đầu tiên chiêu
binh mãi mã, và được
đồng bào Thượng tham gia, tiếp vận lương thực
rất nhiều. Đến đời vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang
Toản yếu thế bị Nguyễn Ánh đem quân đánh lần thứ
ba thì phá được thành, chiếm
Quy Nhơn và đổi
tên là thành Bình Định năm 1799.
Năm 1800, thành
này bị hai dũng tướng của Tây Sơn là Trần Quang
Diệu, Võ Văn Dũng vây đánh ráo riết, trong lúc
đó quân Nguyễn Ánh dồn tiến ra Quảng Nam, Phú
Xuân. Hai tướng giữ thành là Võ Tánh, Ngô Tùng
Châu đều tuẫn tiết. Sau đó, Nguyễn Ánh lấy được
Phú Xuân, trở về chiếm lại
Quy Nhơn, mới đặt tên là dinh Bình Định. Sau
khi Gia Long lên ngôi, dinh Bình Định trở thành
trấn. Năm 1832, đời Minh Mạng, trấn Bình Định
trở thành tỉnh. Năm 1852, Tự Đức lấy từ Bình
Định vô tới Bình Thuận đặt làm Tả Kỳ.
Thời Pháp thuộc,
dân chúng Bình Định tham gia kháng chiến rất
mạnh mẽ. Tháng 7/1885, vua Hàm Nghi truyền hịch
Cần Vương kêu gọi toàn dân vùng dậy. Tổng đốc
Bình Định là Đào Doãn Địch liền từ quan, cầm đầu
các Văn Thân chống quân Pháp. Lúc bấy giờ, làng
Phú Lạc, quận Bình Khê, có người thanh niên 25
tuổi Mai Xuân Thưởng, văn võ song toàn, chiêu mộ
những người nghĩa dũng, đem quân về đứng dưới lá
cờ khởi nghĩa của ông Đào Doãn Địch.
Tháng 9/1885, ông
Đào Doãn Địch mất, Mai Xuân Thưởng lãnh đạo
phong trào kháng chiến tại Bình Định. Giúp ông
có các tướng văn võ như Bùi Điền, Nguyễn Cang,
Nguyễn Hóa, Trần Nha (người quận Bình Khê), Đặng
Thành Tích (người quận An Nhơn), Nguyễn Trọng
Trì, Trần Trung, và đông
đảo đồng bào Kinh, Thượng tham gia. Nghĩa quân
đánh giặc Pháp nhiều trận liệt, riêng hai trận
Thủ Thiện (thuộc quận Bình Khê), Cẩm Văn (thuộc
huyện Tuy Phước), làm quân giặc hao tổn binh
tướng rất nhiều. Tháng 6/1886, một đạo nghĩa
quân Bình Định phối hợp với quân Nghĩa Hội Quảng
Bình, vượt qua núi Thạch Tấn đánh chiếm quận
Bình Sơn (Quảng Ngãi). Pháp dùng kế phủ dụ ông
Mai Xuân Thưởng không được, bèn cùng với hai tên
việt gian Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân đem đại binh
vây căn cứ nghĩa quân.
Quân ta phải rút
về vùng Linh Đổng tính kế trường kỳ, nhưng tại
trận Phú Phong, các anh hùng Bùi Điền, Nguyễn
Cang, Nguyễn Hóa tử trận. Bọn Trần Bá Lộc sai
bắt dân làng Phú Lạc, Phú Phong làm áp lực. Ông
Mai Xuân Thưởng tự mình ra gặp giặc để cứu dân
lành và mẹ. Sau đó ông bị giặc Pháp đem ra hành
hình.
THẮNG CẢNH
Ghềnh Ráng: Quần
thể du lịch Ghềnh Ráng ở phía Đông Nam thành phố
Quy Nhơn và cách trung tâm thành phố 3 km (2
miles). Ghềnh Ráng có diện tích rộng 35 ha, là
thắng cảnh đẹp với bãi cát trắng chạy dài, nước
biển trong xanh. Nơi đây có bãi đá Trứng còn gọi
là bãi tắm Hoàng Hậu bên cạnh đồi Thi Nhân với
mộ nhà thơ Hàn Mặc Tử, những hang động đa hình
đa dạng, những tượng đá mặt người, đầu sư tử,
hòn vọng phu, hòn chồng, hòn vợ, đầu voi... do
thiên nhiên tạo dáng dọc ghềnh đá bờ biển nơi
đây. Từ Ghềnh Ráng có thể nhìn bao quát bờ Đông
của thành phố
Quy Nhơn và bán đảo Phương Mai.
Bãi Tắm Hoàng Hậu:
Nằm trong khu Ghềnh Ráng, bãi tắm Hoàng Hậu được
xem là bãi tắm đẹp nhất ở tỉnh Bình Định. Ở đây
có một bãi đá rộng 100 m2 (900 square ft), gồm
toàn những hòn đá xanh, nhẵn thín như một bãi
trứng khổng lồ. Phía trước bãi là những bức
tường đá thiên nhiên đứng che chắn sóng gió tạo
nên vùng nước lặng. Trước năm 1945, vua Bảo Đại
đến đây du ngoạn, cho xây dựng khu nhà nghỉ 3
tầng hệt một con tàu đang lướt sóng, sân thể
thao bên cạnh bãi tắm. Bãi tắm với bao hòn trứng
đá khổng lồ chỉ dành riêng cho Nam Phương Hoàng
Hậu tắm nên được đặt tên "Bãi tắm Hoàng Hậu".
Bán Đảo Phương
Mai - Thị Nại: Thuộc huyện đảo của thành phố
Quy Nhơn, cách thành phố 8 km (5 miles) về
phía Đông Bắc. Bán đảo Phương Mai rộng 300 ha có
núi Phương Mai, nơi còn bảo tồn được hệ sinh
thái tương đối phong phú với nhiều loại động,
thực vật quý, nhiều cảnh đẹp. Phía Tây bán đảo,
cạnh núi Phương Mai là đầm
Thị Nại. Đầm là một môi trường nuôi trồng các
loại hải sản và cũng là điểm
tham quan du lịch.
Suối Nước Nóng
Hội Vân (Suối Tiên): Suối ở cách trung tâm thành
phố
Quy Nhơn 50 km (31 miles) về hướng Tây Bắc
thuộc huyện Phù Cát. Nước suối có độ nóng 78°C
đến 84°C gồm nhiều thành phần hóa học:
bicatbonat - clorua natri thuộc nhóm nước khoáng
silic; hàm lượng axit silic trong nước rất cao
101mg/l chữa được các bệnh thấp khớp, thần kinh,
tim mạch, các bệnh ngoài da... Nhà điều
dưỡng dùng các phương pháp tắm ngâm, tắm hương
sen, phun hơi ở độ nóng 38°C giúp cho việc chữa
bệnh, tăng cường sức khỏe.
Thắng Cảnh Hầm Hô:
Hầm Hô là tên một dòng suối lớn (một nhánh của
dòng sông Côn), chảy qua khu rừng già, nơi có
nhiều tảng đá lớn muôn hình muôn vẻ, thuộc địa
phận xã Phú Bình, huyện Tây Sơn, cách thành phố
Quy Nhơn khoảng 55 km (34 miles) về hướng
Tây Bắc. Thiên nhiên ở đây yên tĩnh với nhiều
cảnh quan đẹp, hấp dẫn và là nơi tham quan, nghỉ
ngơi của các tour du lịch sinh thái nằm trong
tuyến tham quan du lịch Sơn Tây - Hầm Hô. Hầm Hô
còn là địa
danh lịch sử liên quan đến những cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn và các nghĩa binh của Mai Xuân Thưởng.
KINH TẾ
Vì Bình Định có
nhiều đồng bằng nên dân chúng sống đông đúc hơn
các tỉnh khác ở Trung phần. Người Kinh sống phần
lớn ở vùng đồng bằng thành phố, ngoài ra còn có
người Chàm và người Thượng (sắc tộc Bahnar) sống
ở miền núi. Đa số dân chúng theo đạo Phật, Thiên
Chúa và một số đạo khác, thờ cúng Tổ Tiên.
Dân chúng đều tập
luyện võ Bình Định (còn gọi là võ Tây Sơn), là
một môn võ luyện tập cho thân thể khỏe mạnh, để
tự vệ, nhưng đã góp phần rất lớn trong công cuộc
cứu nước của tiền nhân. Võ Tây Sơn có từ ngàn
xưa và được
cải tiến, phát triển, trong suốt tiến trình
tranh đấu chống ngoại xâm và đánh
đổ bạo quyền. Võ Bình Định còn là môn võ tinh
thần, luyện tập cho ý chí thêm kiên cường, tâm
hồn cao thượng, thương dân, yêu nước.
Về kỹ thuật, võ
Bình Định gồm có quyền thuật và mười lăm môn
binh khí, nhưng sở trường nhất là quyền, côn,
kiếm, đao và thương. Hiện nay, võ Bình Định có
hai môn phái chính là phái An Thái, sở trường về
quyền thuật và phái Thuận Truyền, sở trường về
kiếm thuật và đánh
roi. Nói lên tính ưa chuộng môn võ này, dân gian
có câu ca dao:
Ai về Bình Định
mà coi,
Con gái Bình Định
múa roi đi quyền.
Dân trong tỉnh
rất khéo léo chân tay về ngành dệt và chạm trổ.
Trước năm 1975, những ngày hội, nhất là Tết
Nguyên Đán, dân chúng thường tổ chức rất lớn,
đều có Hát Bội (Hát Bộ) và hò Bài Chòi. Nhà cửa
có lối kiến trúc lạ: mái dầy, nhà thấp, hình
dáng ôm ôm như những nhà tranh ở tỉnh Hà Đông.
Lý do giản dị là dân ta ở Hà Đông vào lập nghiệp
khá nhiều.
Gần 80% dân chúng
sống bằng nghề nông, gạo trong tỉnh dư thừa, còn
có thể cung cấp cho Pleiku và Quảng Ngãi. Các
hoa màu phụ trồng rất nhiều là khoai mì, đậu
phụng, dừa, bông vải, thuốc lá. Đặc biệt là dừa
ở Phù Mỹ và Tam Quan có mức sản xuất khá cao.
Cây ăn trái cũng được trồng nhiều trong tỉnh như
cam, chuối, quít, xoài, dứa. Một loại đặc sản
nổi tiếng của Bình Định là bánh tráng và dân
chúng trong tỉnh rất chuộng bánh tráng, nhiều
lúc chỉ dùng bánh tráng nhúng nước để ăn thay
cơm bữa. Xưa, trong trận chiến thắng quân Thanh,
đạo dân quân của vua Quang Trung đã dùng bánh
tráng như một loại lương khô tiện lợi trên đường
tiến quân thần tốc ra Bắc.
Ngành ngư nghiệp
phát triển mạnh vì có bờ biển dài, nhiều sông
ngòi. Làm nước mắm cũng là nghề thịnh hành trong
tỉnh. Đồng cỏ Bình Định khá tốt, tiện cho việc
chăn nuôi. Lâm sản cũng là một nguồn lợi đáng kể,
có nhiều gỗ quý như gõ, trắc, lim, bằng lăng...
Khoáng sản chỉ có muối với số lượng sản xuất cao.
DI TÍCH
-
Chùa
Thập Tháp (Thập
Tháp Di Đà Tự): Chùa Thập Tháp do Thiền sư
Nguyên Thiều (pháp danh Siêu Bạch) được xây dựng
vào năm 1665, thời chúa Nguyễn Thái Tông, Nguyễn
Phúc Tần, tại xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, ở
cách thành phố
Quy Nhơn 27 km (17 miles) về hướng Tây Bắc.
Chùa tọa lạc trong phạm vi thành Đồ Bàn, đế đô
của vương triều Chămpa cũ, trên một ngọn đồi
thoáng mát có dòng suối Bàn Khê chảy bao quanh
cùng với hồ sen tạo nên một khung cảnh tĩnh mịch.
Trong khuôn viên chùa là vườn cây ăn trái xanh
tốt. Chùa có lối kiến trúc phương Đông theo hình
chữ "khẩu" với 4 khu chính: Chính điện, Phương
trượng, Đông đường và Tây đường. Chính điện có
Đại Hùng bảo điện và 2 gian thờ phụ hai bên. Bên
trong , nội thất trang trí, chạm trổ tinh vi với
các họa tiết hoa sen, xấp sách, hoa cuộn trên gỗ
quí, những đường nét rồng bay, phượng múa, cách
điệu rất trang nhã. Chùa xây bằng loại gạch nung
màu đỏ lấy từ 10 tháp Chàm đã đổ nát ở đồi Long
Bích, nên mới có tên gọi
Thập Tháp. Nhiều người cho rằng chùa còn tọa
lạc trong vùng Uyển Lăng của các triều đại vua
chúa Chăm trước vì chùa vẫn còn 3 giếng Chàm
hình vuông, nước ngọt, trong vắt.
- Chùa Long Khánh:
Tọa lạc tại trung tâm thành phố
Quy Nhơn, chùa được xây dựng dưới thời vua
Lê Dụ Tông (thế kỷ 18). Chùa là nơi truyền bá
tín ngưỡng Phật giáo trong vùng thời bấy giờ.
Hiện nay chùa còn lưu giữ 2 hiện vật quý:
+ Thái Bình Hồng
Chung (chuông Hồng Thái) được đúc vào năm 1805,
triều vua Gia Long.
+ Tấm dấu biểu
trưng "Long Khánh Tự" được in vào năm 1813 triều
vua Gia Long.
- Thành Hoàng Đế
(Thành Chà Bàn): Thuộc địa phận xã Nhơn Hậu,
huyện An Nhơn và cách thành phố
Quy Nhơn 27 km (17 miles) về hướng Tây Bắc.
Thành được xây dựng vào cuối thế kỷ 10, dưới
triều đại vua Yangpuku Vijaya. Đây là kinh đô
cuối cùng của vương quốc Chămpa và các vua Chăm
đã đóng ở đây từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15. Di
tích hiện nay không còn nguyên vẹn, chỉ còn sót
lại các bức tường thành. Tường thành xây bằng đá
ong, có hào, đường lát đá hoa cương. Trong thành
có những di tích cũ của người Chăm như giếng
vuông, tượng nghê, voi, bên cửa hậu có gò
Thập Tháp, trên gò vốn có 10 ngôi tháp Chàm.
Đặc biệt có ngôi tháp Cánh Tiên cao gần 20 m (60
ft), góc tháp có tượng rắn làm bằng đá trắng, 2
voi đá và nhiều tượng quái vật. Chùa
Thập Tháp Di Đà nằm ở phía Bắc thành,
chùa Nhạn Sơn ở
phía Nam thành là những ngôi chùa cổ. Trong đó
còn giữ được nhiều di tích, hiện vật liên quan
đến văn hóa Chămpa và phong trào Tây Sơn. Đến
năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung Ương
Hoàng đế, đóng đô ở đây, gọi là Hoàng Đế thành;
mở rộng về phía Đông, xây dựng nhiều công trình
lớn. Năm 1799, thành bị quân nhà Nguyễn chiếm,
đổi gọi là thành Bình Định. Năm 1814, nhà Nguyễn
phá bỏ thành cũ, xây thành mới, cách thành cũ
khoảng 5 km (3 miles) về phía Nam.
- Nhà Bảo Tàng
Quang Trung: Nguyễn Huệ là một anh hùng dân tộc
có công dẹp loạn trong nước và đánh
đuổi quân xâm lược. Năm 1788 ông thống lĩnh đại
quân từ Phú Xuân (Huế) hành quân thần tốc 35
ngày đ êm
ra Bắc đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược, giải
phóng Thăng Long (nay là Hà Nội). Nguyễn Huệ lên
ngôi Hoàng Đế hiệu là Quang Trung. Nhà bảo tàng
Quang Trung và tượng đ ài
anh hùng được dựng trên khu đất nơi sinh ra
Nguyễn Huệ ở làng Kiên Mỹ, xã Bình Thạnh, huyện
Tây Sơn, cách thành phố
Quy Nhơn khoảng 45 km (28 miles). Đến bảo
tàng Quang Trung, du khách được xem các hiện vật
trưng bày ở đây về những chiến tích của vua
Quang Trung. Ngoài ra, du khách còn được thưởng
thức điệu múa trống võ Tây Sơn , một môn võ
truyền thống của Bình Định. Đặc biệt cô gái biểu
diễn trống trận Quang Trung là cháu đời thứ 9
trong một gia đình có truyền thống "chơi" trống
trận.
- Thành Thị Nại:
Thành Thị Nại một thời từng là trung tâm của
vương quốc Chămpa trong quá trình di chuyển từ
đất Quảng Nam vào Quảng Ngãi trước áp lực của
nhà nước phong kiến Đại Việt. Thị Nại là đô
thị cổ đại duy nhất và lớn nhất của vương quốc
Chămpa tồn tại trong suốt 5 thế kỷ (từ thế kỷ 10
đến thế kỷ 15). Thị Nại cũng là cảng khẩu ven
đầm, gần biển với hai chức năng quân cảng và
thương cảng. Theo các cứ liệu nghiên cứu lịch sử
cho biết niên đại của thành Thị Nại (hay cảng
Thị Nại) được xây cất sớm nhất là vào năm 803,
muộn nhất là năm 1000, khi người Chàm dời vào
đóng đô ở Đồ Bàn thì thành đã có rồi. Thành Thị
Nại cách bờ Đông của đầm Thị Nại 5 km (3 miles),
cách thành Đồ Bàn 22 km (14 miles) ở phía Tây -
Tây Bắc, cách Tháp Đôi 24 km (15 miles) về hướng
Đông - Đông Nam. Thành hiện còn dài 200 m (600
ft), dày khoảng 3 m (9 ft), cao còn 1,8 m (5.4
ft). Bờ thành nằm dọc sông Côn thuộc xã Phước
Quang và một phần xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước.
LỄ HỘI
- Lễ Cúng Cá Ông:
Ở các xã ven biển Bình Định thường xuyên mở hội
cúng Cá Ông vào ngày 15/3 âm lịch tại các đền
thờ Cá Ông. Theo truyền thuyết, Cá Ông thường
cứu giúp thuyền và người bị nạn trên biển. Ngoài
nghi lễ truyền thống, trong hội còn có hát bả
trạo, hát bội.
- Lễ Hội Tây Sơn:
Lễ hội Tây Sơn được tổ chức hàng năm vào mồng 5
tháng Giêng âm lịch (chính hội), bắt đầu tổ chức
từ ngày mồng bốn và kéo dài đến vài ngày sau tại
xã Nghi Bình, huyện Tây Sơn để tưởng nhớ các thủ
lĩnh của phong trào Tây Sơn, đặc biệt là người
anh hùng áo vải Quang Trung và kỷ niệm chiến
thắng Ngọc Hồi Đống Đa (năm 1789), đánh thắng 29
vạn quân Thanh. Ngoài nghi lễ truyền thống,
trong hội còn có nhiều hoạt động văn hóa dân
gian các dân tộc Việt, Bana; nhiều cuộc biểu
diễn võ thuật như đấu võ, đánh côn, đi quyền...
Tiết mục độc đáo của lễ hội là cuộc thi đánh
trống bộ, mỗi bộ 12 chiếc trống da, còn gọi là
trống trận Tây Sơn và diễn cảnh đánh trận giả
làm sống lại khí thế hào hùng của nghĩa quân Tây
Sơn năm xưa trên đất Tây Sơn - Bình Định.
- Lễ Hội Đổ Giàn:
Tổ chức vào ngày 15/7 âm lịch hàng năm tại chùa
Bà, làng An Thái, huyện An Nhơn. Ngoài ý nghiã
lễ Vu Lan - lễ báo hiếu nhà Phật, đây còn là hội
đua tài của các võ sĩ của các làng võ quanh vùng.
Trong lễ hội có nhiều sinh hoạt văn hóa, đặc
biệt là hát bội. Phần chính của hội là tranh tài
cướp heo quay, vật cúng thần từ trên giàn cao
tung xuống mang về cho làng mình. Người thắng
cuộc là người được nhân dân quý trọng.
- Hội Làng Thị Tứ:
Làng Thị Tứ thuộc xã Đập Đá, huyện An Nhơn, là
làng có truyền thống làm rèn và chạm vàng Tây.
Lễ hội hàng năm vào ngày 12/2 âm lịch để tưởng
nhớ công ơn của ông Đào Giã Tượng, ông tổ của
nghề rèn đã có công truyền nghề cho dân làng. Lễ
hội diễn ra ở nhà thờ họ Đào để cúng lễ tổ sư
nghề rèn, cỗ bàn rất linh đình. Sau lễ tế có vui
chơi, ca hát văn nghệ.
-
Hội Xuân Chợ Gò:
Được tổ chức vào 2 ngày: mồng 1 và mồng 2 tết
tại chợ Gò, thị trấn Tuy Phước, huyện Tuy Phước.
Trong hội chợ có bán nhiều hàng hóa, chủ yếu là
trái cây các loại, đồ chơi trẻ em... và tổ chức
nhiều trò chơi dân gian như chọi gà, hát bài
chòi, cờ người, hái lộc, dạo cảnh...
* Bộ ảnh
"Quy Nhơn
-
Thành Phố Thi Ca" *

*
Những bài viết "Bình
Định - Đất & Người" - nhiều tác giả
*
Những bài Viết "Di
Tích & Văn Hoá Đất Võ" - nhiều tác giả
*
Những bài viết "Bình
Định Tản Mạn & Thơ Ca" - nhiều tác giả

|