Món Quà Bát Nhã
Trần Kiêm Đoàn

Trong đời sống
tâm linh của thế giới phương Tây, một thế giới
đầy năng động của sự thay đổi và sáng tạo, đạo
Phật được ươm mầm và khởi sắc khiêm tốn như một
đóa hoa sen trong cái hồ Tây mênh mông dậy sóng.
Con người vừa thức dậy sau giấc ngủ dài từ thời
Trung Cổ. Những đầu óc tiền phong khai phá đi
tìm một sự lý giải rạch ròi hơn cho thế giới thể
chất và tâm hồn. Hết vật lý cơ học, đến vật lý
lượng tử ra đời. Vũ trụ vô biên và im lặng từ
thuở hồng hoang được khai quật. Nhìn từ phía
con người nhỏ bé thì cánh cửa vào thế giới tự
nhiên vô biên nầy đang được hé mở.
Những đầu óc kiệt
xuất và những phương tiện thiện xảo của khoa học
kỹ thuật đã đầu tư khai phá để cố gắng trả lời
về một vấn nạn từ xửa, từ xưa, từ khi ông Bành
Tổ mới ra đời: “Ta từ đâu đến và sẽ đi về đâu?”
hay “Phải chăng ta chỉ là cái bọt bóng xà phòng
xuất hiện như một sự tình cờ rồi vỡ tan mất dạng?!”
Khoa học Vũ trụ
(Cosmology và Astrophysics) đã dùng những lý
thuyết kinh điển cố tìm nguồn cội theo chỉ dấu
từ vụ nổ lớn nguyên thủy “Big Bang” cách đây
chừng 15 tỷ năm và khám phá soi rọi vào đơn vị
vật thể nhỏ nhất là “proton”. Lý thuyết Big
Bang lại mờ dần vì khoa học càng tiến bộ, nhu
cầu khám phá của con người càng tinh vi và phức
tạp hơn. Những lý thuyết về Lỗ Đen (Black Hole),
Điểm Quái hay Điểm Dị (Singularity) đang nhường
bước cho những phương tiện truy tìm mới hơn như
Superstring, M-theory… tiếp tục khám phá để cố
tìm ra một giải đáp sau cùng. Nhưng tốn cả 10 tỷ
đô-la và 14 năm để tạo ra chiếc máy đập vỡ
“proton” với hy vọng tìm ra bí mật của vũ trụ
thì cũng chỉ mới là dự phóng trong ước mơ của
vật lý khoa học trên đường mong tìm ra bí ẩn của
vũ trụ.
Con người đã tự
tìm câu trả lời về “giới hạn vô biên” qua một
hình ảnh và khái niệm thuần túy tri thức tuyệt
đối là Thượng Đế. Con người cung đón và phó
thác tất cả những điều chưa biết được vào bàn
tay Thượng Đế để an tâm và tiếp tục sống mỗi một
cuộc đời ngắn ngủi trên trần thế. Thượng Đế trở
thành nguyên nhân đầu tiên và cuối cùng cho ai
tin ngài như một đấng toàn năng có nhân dáng hơn
chỉ là một khái niệm thuần lý tuyệt đối.
Đạo Phật ra đời
và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách
nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thức và
tâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã. Món quà Bát Nhã
là món quà của đạo Phật đã cung hiến cho nhân
loại: Trí tuệ, tỉnh thức, hòa bình, an lạc.
Bát Nhã Ba La Mật
Đa (Prajñāpāramitā) là trí tuệ viên mãn, là tri
thức trái tim của Phật Giáo, là sự thấu hiểu
vẹn toàn tất cả những gì trong vòng quay sống
chết và tái sinh.
Diễn giải thì
trời biển như thế, nhưng rốt lại 600 tập Đại
Tạng Bát Nhã cũng chĩ còn hai chữ “Tâm” và “Không”;
và rồi chỉ còn một chữ: “Không”. “Không” là
trạng thái rỗng lặng. Không là thanh tịnh, an
hòa, là thế dừng lại ở giữa, như như bất động.
Nên “không” chẳng phải là “bất” là “vô”, là đối
nghịch với có, là hư vô, là tuyệt đối không còn
gì nữa cả.
Phương pháp luận
của đạo Phật trong lĩnh vực tâm linh cũng chặt
chẽ mà bao trùm như khoa học trong lĩnh vực vật
lý và thể lý. Lý thuyết về một vũ trụ độc nhất
đang tiến hóa theo chiều hướng thành, trụ, hoại,
diệt và tiếp theo sau đó là một khoảng trống hư
vô tự chứng tỏ không còn lý do đứng vững. Lý
thuyết “đa vũ trụ” lại ra đời. Khái niệm “đa vũ
trụ” cho rằng trong cõi mênh mông có vô số vũ
trụ trùng trùng sinh diệt. Vòng quay sinh diệt
ấy thật gần gũi với “tam thiên đại thiên thế
giới” của nhà Phật. Theo lý thuyết của khoa Vũ
Trụ học cận đại thì một đại tinh cầu có khả năng
co cụm lại thành một Lỗ Đen và lỗ đen sẽ rút lại
thành một Điểm Dị. Một khi lực nén và khối lượng
đến đỉnh điểm vô lượng vô biên quy hợp thành
Điểm Dị ấy thì sẽ có sự nổ bùng. Đó là hiện
tượng vụ nổ “Big Bang” hay một hình thức tái
tạo hay tái sinh tương tự khởi đầu để bung ra
thành vũ trụ hôm nay. Hình tượng chuyển hóa vũ
trụ ấy chỉ xin nêu ở đây như một sự minh họa
rằng, con người vừa sinh ra đã mang trong mình
lực sống và lực chết thì mỗi tế bào trong vũ trụ
cũng đều mang lực đẩy và lực hút. Cứ như thế, vũ
trụ không bao giờ chết và “Big Bang” cũng như Điểm
Dị sẽ lập đi lập lại hoài không có điểm khởi
đầu và kết thúc; từ vô thủy đến vô chung. Các
nhà vũ trụ học đang tìm cách phủ nhận lý thuyết
cổ điển là vũ trụ sẽ chết để thay vào đó lý
thuyết cho rằng, vũ trụ có muôn vàn hệ thốngg
khác nhau và vĩnh viễn lập đì lập lại chu trình:
Sinh (thành), Trụ, Hoại, Diệt, Sinh, Thành…
Trong mỗi tế bào vạn vật đều có mang đầy đủ yếu
tính của một tiểu vũ trụ xuất phát từ một đại vũ
trụ đã quy hồi tận cùng vào Điểm Dị của tự thể
đầu tiên và cuối cùng giữa không gian vô cùng và
thời gian vô tận.
Phật
giáo càng ngày càng được giới thức giả phương
Tây chú ý và các nhà tâm lý Mỹ xem là một khoa
học tâm linh có thể dùng phương pháp thiền định
để trị liệu những chứng thần kinh và tâm bệnh.
Nhưng tùy theo điểm đứng và cách nhìn mà mỗi
nhân vật tự tìm thấy nơi suối nguồn Phật giáo
một giá trị riêng. Có người xem đạo Phật như một
hệ thống triết lý. Có người xem đạo Phật như một
thái độ sống tĩnh lặng, nhu hòa và an lạc. Có
người xem đạo Phật như một phương pháp luận về
triết lý khoa học. Có người xem đạo Phật như tín
lý thờ cúng, cầu an, cầu phước, cầu siêu cho
linh hồn được giải thoát. Có người xem đạo Phật
là một tôn giáo. Thậm chí, còn có người cho đạo
Phật là một tín lý duy vật, vô thần. Tất cả họ
đều có sự xác tín, vì thật ra, đạo Phật là một
hiện hữu mang đủ yếu tính của tất cả những
khuynh hướng đó. Nhưng nếu chỉ tách bạch đạo
Phật ra từng lối rẽ như thế thì khác nào tách
một bông sen ra cánh, ra gương, ra nhụy, ra cành!
Những phần đó cũng từ hoa sen nhưng chẳng phải
là hoa sen.
Tại các
xã hội Âu Mỹ ngày nay, cộng đồng tôn giáo và các
tổ chức tâm linh thế giới càng ngày càng tìm
cách tiếp cận và thông hiểu Phật giáo nhiều hơn.
Trong mùa Phật
Đản và Vu Lan năm nay, Phật giáo nhận được một
tin vui đầy sôi động về “món quà Bát Nhã” tượng
trưng đầy ý nghĩa từ những tâm hồn tôn giáo và
thiện hữu thế giới. Món quà mang tính tượng
trưng vì “sự kiện” được thông tin có thể chỉ là
một thiện ý mang tính quan niệm hơn là dữ kiện.
Tuy nhiên, món quà bát nhã là món quà tâm không:
Người cho cũng là người nhận, nên sự đồng cảm
không còn phân biệt ta với người hay người với
ta. Món quà Bát Nhã cũng như “Kim Cang vô tự
thị chân kinh” – Kim Cang kinh thật là kinh
không lời – Cho dẫu có thật hay tin đồn thì vẫn
quy về một mối là Tin Không hay không tin thì
cũng chẳng có gì đáng phân biệt như đóa sen và
nụ cười Ca Diếp, tưởng như hai đối thể nhưng cội
nguồn là một. Trong ta có người, trong người có
ta nên không còn “viễn ly điên đảo mộng tưởng”
làm chi cho mỏi mệt.
Những thông tin
trong môi trường truyền thông đại chúng ngày nay
có quá nhiều dạng thức. Tuy nhiên, căn bản vẫn
nằm dưới ba hình thái: Ý kiến (opinion), suy
luận (inference) và dữ kiện (fact). Nhưng trên
thực tế thì ba hình thức nầy vẫn thường bị xen
lẫn hay pha trộn với nhau. Ví dụ như khi nói
rằng: “Phật giáo là tôn giáo hiếu hòa, an lạc
nhất thế giới” thì đây vừa là ý kiến, vừa là suy
luận mà cũng vừa là dữ kiện.
Sau đây là một
nguồn tin đại khái mang tính chất đa dạng như
thế:
Vào ngày
15-7-2009, báo chí đưa tin rằng, tại Geneve,
Thụy Sĩ, Liên Hội Thăng Tiến Tôn Giáo và Tâm
Linh Quốc Tế (International Coalition for the
Advancement of Religious and Spirituality – Viết
tắt là: ICARUS) đã bầu chọn Phật giáo là tôn
giáo được tặng giải thưởng mang tên là Tôn Giáo
An Lạc Nhất Thế Giới (Best Religion in the
World). Chữ “best” rất khó dịch trong trường
hợp nầy. Best là nhất, là hàng đầu, là trội hẳn
hơn tất cả. Nhưng với đạo Phật thì tâm phân biệt
nhất, nhì… chẳng có một ý nghĩa nào cả như theo
quan niệm đời thường. Nếu còn động tâm thỏa mãn
với thế đứng trên dưới thì sẽ trở thành “phi
Phật giáo” mất rồi; dẫu rằng, bản chất hòa
bình, an lạc của đạo Phật là nét trội bật hơn cả
so với các tôn giáo khác trên thế giới. Cũng
theo bản tin được loan truyền rộng rãi trên môi
trường truyền thông thì ICARUS quy tụ hơn 200
nhà lãnh đạo tôn giáo và tổ chức tâm linh khắp
nơi trên thế giới. Họ đã cân nhắc chọn ra một
danh sách 38 tôn giáo và tổ chức tâm linh lớn
nhất của thế giới để bầu. Tiêu chuẩn của giải
thưởng là: (1) Có đường lối hành đạo không bạo
động, (2) thể hiện tình thương không phân biệt,
(3) góp phần bảo vệ môi trường sống, (3) tôn
trọng tính nhân bản, (4) nâng cao giá trị trí
tuệ và tinh thần. Và, có lẽ đây cũng chỉ là
những nét chung chung của mọi tôn giáo. Nhưng
Phật giáo ghi được dấu ấn đậm nhất về đường lối
hành đạo hiếu hòa, không bạo động.
Đại diện lãnh đạo
của các tôn giáo lớn như Thiên Chúa giáo (linh
mục Ted O’Shaughnessy), Hồi giáo (giáo sĩ Tal
Bin Wassad), Do Thái giáo (tu sĩ Rabbi Shmuel
Wasserstein)… đều phát biểu tương tự rằng, họ là
người chí thành với tôn giáo của họ và coi tôn
giáo riêng của họ mới là thiêng liêng vào bậc
nhất của thế giới, nhưng chỉ có duy nhất Phật
giáo là trong suốt lịch sử hành đạo chưa bao giờ
nhân danh đạo Phật để bắn ra một viên đạn hay
thực hành bạo động. Ông Hans Groehlichen, chủ
tịch ICARUS đã phát biểu: “Phật giáo thắng giải
tôi không có gì ngạc nhiên cả, mặc dầu đại diện
Phật giáo trong tổ chức này chiếm một tỷ số rất
nhỏ.”
Tin ghi là giải
thưởng không biết trao cho ai. Nhà sư Miến Điện
Bhante Ghurata Hanta được mời làm đại diện nhận
giải thưởng cho Phật giáo đã khiêm cung trả lời:
“Tôi rất cảm kích với sự ghi nhận và tặng thưởng
nầy dành cho đạo Phật. Nhưng chúng tôi xin trao
giải thưởng nầy cho toàn thể mọi người vì mỗi
chúng sinh đều có Phật tánh trong mình”.
Khách quan để
nhận định rằng, các tôn giáo lớn trên thế giới
có số lượng tín đồ, cơ sở vật chất, địa bàn hoạt
động, tinh thần năng nỗ xông xáo trong việc
truyền giáo phong phú hơn Phật giáo rất nhiều.
Nhưng tinh thần từ bi hỷ xả, bất bạo động của họ
trong quá trình hành đạo, khó có tôn giáo hay tổ
chức tâm linh nào vượt qua Phật giáo.
Ngay sau khi tin
nầy trích từ Tribune de Geneve (Linda Moulin)
được loan ra rộng rãi trên hệ thống các mạng
lưới truyền thông, hàng triệu người đã theo dõi
và tham gia bình luận. Người thì cho rằng đây là
“vin vịt” (hoax) vì không kiểm chứng được tông
tích của ICARUS; kẻ lại cho rằng đây là tin thật
vì ICARUS là một hội riêng tư (nonpublic agency
- NPAS) và tông tích của họ thuộc loại không
công bố (non-publicized identity). Bản tin dẫu
thật hay không thì tác động đáng nói của nó đã
bắn tiếng và lan rộng ngoài dự tưởng của giới
truyền thông quốc tế.
Chỉ trong vòng 2
tuần sau khi bản tin tung ra “giải thưởng của
200 người…”, đã có trên hai triệu người theo dõi
và bình luận (Asiana Weekly, VII, 2009). Khen
chê, đồng ý hay bất đồng là tâm lý thường tình ở
đâu và đời nào cũng có cả. Nhưng chưa có ý kiến
nào phủ nhận tinh thần hỷ xả, bất bạo động của
Phật giáo xưa nay. Điều thú vị là tin đưa ra như
gây được một “cảm hứng tâm linh” làm cho rất
nhiều người xưa nay không hề để ý, nay lại năng
nỗ tìm hiểu Phật giáo. Chữ “best” như trình bày
ở trên, đã làm động tâm nhiều người vì đức tin
tôn giáo là một cảm nhận hoàn toàn chủ quan. Tất
nhiên, ai cũng cho hệ thống tín lý của tôn giáo
mình là bậc nhất họ mới theo. Bởi vậy, hầu như
tất cả tu sĩ và tín đồ Phật giáo đều cảm kích
trước cảm tình của những người bạn lành – những
người đã tham gia bình luận trên mạng lưới thông
tin – đã dành cho Phật giáo. Nhưng khì nói đến
“giải thưởng” không ai là người muốn hay dám
nhận rằng, mình hay tôn giáo mình đứng ở một thứ
bậc cao thấp nào ở trần gian nầy cả.
Thêm
được một bàn tay thân ái mở rộng đón chào là
thêm được một niềm vui cho suối nguồn an lạc.
Mùa Phật Đản và Vu Lan năm nay, người Phật tử và
thiện hữu bốn phương dẫu có nhận hay không món
quà tinh thần – một món quà Bát Nhã – thì vẫn
chung nở một nụ cười hoan hỷ, hòa ái cho chính
mình, cho bè bạn và thế giới quanh mình.
Trần Kiêm Đoàn
Sacramento, mùa Vu Lan 2009


|