Ngày lại ngày...
Bửu Ý
* Mở
cửa nhìn ra...
Buổi
sớm mai, mở cửa nhìn ra, hình như người nào cũng
mở lòng, thoáng một nỗi vui lớn nhỏ, tối thiểu
là một sự ngóng chờ gì đó chưa rõ mặt mày. Hình
như người đang đi dưới đường là người ta mới bắt
gặp đâu đây và có gật đầu chào mình, hay là
người nhà của học trò mình...
Mở
cửa nhìn ra, nhìn ra vườn, nhìn qua hàng xóm,
nhìn ra đường, là chào một ngày mới bắt đầu, là
khấp khởi phát hiện điều mới mẻ tươi vui hay là
nâng tim óc mình dậy.
Ta
mong đêm vừa qua đã dọn cho ngày. Tối thiểu là
dọn bóng đen. Tốt hơn là dọn tàn dư của ngày qua
gồm đủ thứ không bằng lòng hay không bằng mặt.
Tôi
có một người bạn gái ở trời Tây là chủ nhân của
một lâu đài. Lâu đài không đồ sộ lắm, nhưng cũng
là một địa điểm tham quan của du khách vì vườn
rộng như rừng, và bên trong rất nhiều đồ cổ và
rất nhiều sách thu thập từ bốn năm thế kỷ. Chủ
nhân đã đến hồi không mướn nổi người chăm sóc,
nên phải tự thân lo liệu được chừng nào hay
chừng ấy.
Cô
bảo: Muốn mở cửa phải dậy thật sớm. Cứ sợ không
kịp. Bởi lẽ đêm dài quá, bắt đầu sớm quá, cứ sợ
dại bóng tối dập vùi, chẳng hiểu trời có sáng ra
nữa không. Cho nên trời ló sáng là dậy ngay,
điểm tâm qua quýt là em đi mở cửa. Mở cửa là mở
mắt, là giải phóng tầm nhìn. Vậy thì việc gì
không làm. Cửa sao nhiều quá, từ tầng trệt lên
đến tầng một tầng hai. Cửa sổ nào cũng cao bằng
cửa lớn. Phải ra sức mới được. Nhưng đồng thời
phải nâng thật nhẹ tay (cứ sợ nó đổ xuống, hoặc
long bản lề thì khổ), rồi đưa hai tay mở dạt cửa
ra ép sát tường, sao cho khỏi vướng ánh mắt bên
ngoài nhìn vào. Mở toàn bộ bao nhiêu cửa gần như
hết cả buổi sáng! Rồi mở ra thì phải có đóng lại.
Không đóng lại là bao nhiêu chim dơi ập vào nhà
hoặc gió ban đêm chưa biết sao mà lường. Xẩn vẩn
đã đến giờ đóng cửa. Đóng cửa cũng phải bắt đầu
sớm vì đêm xuống nhanh. Cũng mất chừng ấy thì
giờ để đóng. Hóa ra sống trong cái lâu đài này,
nghe ra cao sang quý tộc, em chỉ toàn mở cửa
đóng cửa. Chẳng cần biết hôm nay là ngày gì,
khỏi tính toán hôm nay có ma nào viếng lâu đài
hay không, việc của em là mở cửa. Mà cũng chẳng
cần ai khiến, mở cửa là việc em cần phải làm, vì
đó là một sinh thú của em bây giờ. Và đương
nhiên có mở cửa là có đóng cửa. Và cũng chẳng
cần ai khiến, có như vậy ngày mai em mới có dịp
mở cửa!
Buổi
sớm mai, mở cửa nhìn ra, hình như người nào cũng
mở lòng, thoáng một nỗi vui lớn nhỏ, tối thiểu
là một sự ngóng chờ gì đó chưa rõ mặt mày.
*
Chuyện trò
Hai
bà gặp nhau chuyện trò. Hai bà chuyện trò năm
này đến năm khác. Chuyện trò vào những giờ giấc
cả hai đều không để ý, mà người ngoài nhìn vào
cũng sẽ không ngờ. Chuyện trò trong bao lâu, hai
người không quan tâm. Cái đó tùy theo... tùy
theo... Mỗi người nói một câu, chen nhau, như
thể đã ngầm quy định với nhau như vậy. Hoặc
người này hỏi một câu, người kia trả lời một câu.
Hỏi tiếp, trả lời tiếp. Cứ thế. Đến một lúc,
không ai bảo ai, hai người đổi vai: người kia
hỏi, người này trả lời.
Người
ta bảo cái gì rồi cũng quen. Ngay như thể dục
buổi sáng, thời gian đầu thấy nhọc nhằn, kéo dài
dần hóa quen: một, hai... tám, chín... Nói
chuyện như hai bà cũng như thể dục. Như chuyền
bóng qua lại. Bóng chuyền nhanh đón nhanh,
chuyền chậm đón chậm. Không cần biết là chuyện
gì. Đến nay thì hình như bóng chuyền chậm quá:
người này nói và nghỉ nói đã lâu vẫn không thấy
người kia tiếp lời, thành thử nói tiếp. Riết nói
chuyện không còn là nói chuyện. Hai người ngồi
bên nhau và luân phiên độc thoại.
Độc
thoại nghĩa là có người ngồi bên mà cũng như
không có. Độc thoại là nói với mình, nhưng cũng
có nói với người mà không cần được trả lời. Đã
nói với mình thì không cần sắp xếp. Không cần ai
tiếp lời ai. Độc thoại ngắn dài tùy theo... tùy
theo... Im lặng ít nhiều...
*
Viết
Cũng
là viết, nhưng sao có người viết thật khó khăn,
như vắt óc không bằng, như thể là rặn đẻ (như
phương thuật maieutique của Socrate), và ngược
lại, cũng là đẻ, nhưng có người viết dễ dàng như
gà đẻ. Đó chẳng qua mỗi người có một tiết nhịp
riêng từ bên trong chuyền ra đầu ngọn bút.
Đó
cũng có thể xem là sự khác biệt giữa người viết
văn ngồi trong phòng, trong thời khắc im vắng,
vừa trầm ngâm vừa viết chậm rãi và, ngược lại,
người viết báo cần chạy theo đồng hồ. Nhưng thời
đại ngày nay đã dần dà xóa nhòa ranh giới giữa
người viết văn và người viết báo.
Viết,
đối với tôi, bao giờ cũng khó. Biết bao nhiêu
con người ta viết thao thao vẫn thành chương
khúc, khi vút cao, khi trầm sâu. Chẳng phải là
sở trường của tôi đó thôi. Nhưng tôi thích viết,
và càng thích thú hụp lặn vào nỗi khó viết.
Vậy
mà tôi đã có lần cười bảo một bạn văn rằng anh
“viết táo bón”. Lẽ ra đồng bệnh tương lân mới
phải, đàng này cười chịu tội và tự trào luôn thể.
Tôi
khó viết đến đâu vẫn không bằng bạn Đỗ Long Vân,
tác giả của những pho bình luận bất hủ “Vô Kỵ
giữa chúng ta”, “Hồ Xuân Hương, nguồn nước ẩn”...
Đối với anh này, viết cho xong một tờ thư gửi vợ
là một thành công của anh ngày hôm ấy sau khi đã
vo tròn sáu bảy tờ khác.
Giá
nay tôi chẳng viết được gì cũng chả thiệt thòi
gì cho ai, mà đối với mình lại có cái lợi bớt đi
một tật bệnh.
Khổ
nỗi, tôi vẫn thích viết. Người ta bảo: viết là
một cách sống. Đó là hơi thở. Đó là óc, là lòng
mình trải ra trên giấy. Là sự chuẩn bị cọ xát
với đời, với người khác. Là một nhịp cầu, một
cánh cửa mở ra, một lời tung chờ hứng, một bàn
tay đưa ra sẽ thõng thượt hay sẽ nắm được một
bàn tay anh em...
Quả
tình viết không chỉ thuần là viết. Bằng không
chỉ lai hoàn một tuồng sắp chữ hoặc, tệ hại hơn,
chỉ là một lối tung hỏa mù để dễ bề thao túng ở
hậu trường.
Viết là nói, là nghĩ, là làm. Đặt quan hệ với
người, với đời. Tự hứa với mình, cam kết với
đời. Viết, dù muốn dù không, là để lại. Nó sẽ
trở thành ấn chứng, một hạt cát của lịch sử.
Nhưng người ta cũng có khi thận trọng cảnh giác
rằng viết là gây ngộ nhận vì tim, óc và chữ viết
ít khi là ba điểm thẳng một hàng. Vậy thì người
viết, không nhiều thì ít, phải vật lộn với chữ
viết và mong sao cuối cùng mình lọt ra đắc thắng
dù có hào hển.
*
Phận người
Đầu
những năm 1970, ở Đà Lạt có một tiệm ăn sang
trọng, đường Hoàng Diệu, có tên là “L’eau Vive”.
Đây là một tiệm ăn các món Tây và người phục vụ
cũng toàn là Tây. Ngoại trừ chủ tiệm là một bà
đầm lớn tuổi và có bằng cấp dạy học, các cô phục
vụ đều trẻ, đẹp, và nhất là ăn mặc tân thời: áo
bó sát, váy cao. Các cô, có luôn người da đen,
thoăn thoắt, tươi cười, đon đả. Thức ăn ngon,
rượu đủ nhãn. Tha hồ cho các ông ngả ngớn, bèo
quẹt. Có cả một vườn hoa đẹp chung quanh. Thực
khách tùy tiện bước ra vườn ngắm hoa rồi trở lại
bàn. Đủ điều kiện để cho tiệm trở thành một nơi
đắc khách. Mãi sau, tìm hiểu thêm, tôi mới vỡ lẽ
ra rằng tất cả giai nhân ấy đều là... nữ tu!
Ôi,
“Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán, Chết đuối người
trên cạn mà chơi!” Hóa ra có dòng tu yêu cầu khá
ngặt nghèo: tu sĩ phải xông vào đời, trà trộn
với người, tiếp cận cám dỗ. Sau một thời gian
thử thách, nếu không gục ngã là tốt, là khéo tu!
Cõi
nhân gian này đây là một trường thí nghiệm khổng
lồ với đủ mùi đủ vị, đủ các mặt hàng, đủ các
hạng người tiêu thụ. Người trần mắt thịt tha hồ
bì bõm, lắm lúc cười ra nước mắt.
Nụ
cười và nước mắt là những biểu hiện đời sống nội
tâm mà thú vật không có. Đó là những đặc hưởng
của con người, có ý nghĩa tâm lý và lại còn chứa
chất một hàm ý tâm linh. Nụ cười còn là một
hướng vọng, mở lòng hân hoan chờ đợi những điều
âm thầm hứa hẹn. Và nước mắt không chỉ khoanh
vào hiện tại. Trong chiều hướng ấy, dù nơi một
người vô đạo, nụ cười và nước mắt đều biểu lộ
thiên hướng của kẻ có đạo.
Ngày
nay số người đi nhà thờ, đặc biệt ở phương Tây,
sút giảm. Điều này chưa hẳn có nghĩa là tôn giáo
đang trên con đường đi xuống, nhưng có nghĩa là
khuôn khổ của nhà thờ không còn thích hợp với
những kích thước mới khác của con người và con
người đang đi tìm xây dựng những ngôi nhà thờ
khác cho mình. Có thể tôn giáo suy giảm ảnh
hưởng trong xã hội, tuy nhiên cái tính chất tôn
giáo, màu sắc tôn giáo vẫn còn trong xã hội. Có
cơ còn mạnh hơn trước. Bởi lẽ một khi xã hội
không đủ lời giải đáp cho bao nhiêu nhu cầu,
thắc mắc, vấn nạn về tinh thần, tâm linh... thì
con người hướng đến một nẻo khác, tìm cách bám
víu vào một cái phao cứu hộ, một chiếc bè tỵ nạn:
trong trường hợp này không có gì mầu nhiệm cho
bằng một quyền năng siêu nhiên, một lực lượng
siêu hình, một đức tin vô hình, một đấng toàn
năng. Đó có thể là điều không tưởng nhưng là một
ý hướng về sự cứu rỗi.
Con
người là một sinh vật có lý trí. Được như vậy nó
mới là sinh vật thượng đẳng. Nhưng đừng quên nó
là sinh vật hữu hạn. Socrate cũng không ngoại lệ.
Và giới hạn ngày một sinh sôi. Đâu chỉ giới hạn
“trăm năm” mà thôi, một cách tự nhiên, như sông
ra biển, như bụi về đất. Còn là một sinh vật
nhiễm thể, nhiễm bệnh, thường trực làm mồi cho ô
nhiễm.
Con
người, dù uy dũng đến đâu, trí tuệ đến đâu, chỉ
là sinh vật nhỏ bé. Nhà tư tưởng Pascal dùng
hình tượng “cây sậy” để chỉ con người, nhưng ông
nói thêm là cây sậy “có tư tưởng”. Hình tượng
này hình như thuyết phục được mọi người, cho nên
nổi tiếng, được truyền tụng. Đó là một hình
tượng vừa trả con người về nguyên quán của nó
nhưng lại vừa tôn vinh nó. Hình tượng thật ý vị
và thấm thía. Vừa đủ để cho con người vươn vai
vượt qua thân phận cát bụi của nó, vừa răn đe
những đầu óc ngông cuồng. Ra giữa trùng khơi,
trên một con tàu đồ sộ bao nhiêu cũng chỉ ngang
bằng chiếc lá tre, con người mới nhận chân ra
tấm thân bèo bọt của mình. Hoặc, bay lên giữa
trời lồng lộng, con người chẳng hơn gì một chiếc
diều trong gió.
Con
người là một sinh vật dựng đứng, đặt mình giữa
hai lực: lực kéo xuống của đất, và lực hút lên
của trời. Phải cắm chân vào đất, đứng vững trên
đôi chân của mình. Nhưng trí óc không ngừng vươn
cao, tâm hồn không ngừng tỏa rộng. Những hoài
bão, cầu nguyện, mơ ước, là những chiếc cánh
chắp thêm cho con người. Có ai là người không mơ
mộng, có ai là người chẳng hy vọng điều gì.
Đời
sống có ý nghĩa ở chỗ “cầu được, ước thấy”. Chỉ
cần “cầu ước” đủ làm nên giá trị, hương vị của
đời sống, nói chi đến cái “được”, cái “thấy” vốn
cút bắt con người.
Đời
sống của con người, nếu không có phần tâm linh,
sẽ sè sạt và, dù của cải phương tiện chất chồng
như núi, chỉ còn tiến triển theo chiều đi ngang.
Bửu Ý (theo
Hoa Linh Thoại)

|