Tưởng nhớ Sư Bà Tâm Hoa
Chùa Tâm Ấn,
Thành Phố Quy Nhơn – Bình Định
Thích Giác Tâm
Các con thương
yêu!
Thường thường
tiểu sử hay chân dung của người thân, Thầy viết
một đến hai ngày là xong. Riêng trường hợp của
Sư Bà Tâm Hoa thì trái lại , mười mấy năm rồi
Thầy viết vẫn chưa xong. Chưa xong là bởi vì
Thầy định viết mà không chịu viết, cứ ngần ngại
cứ sợ các Sư Cô đệ tử của Sư Bà đọc xong cười
Thầy (đệ tử và đệ tôn của Sư Bà rất đông và
nhiều người giỏi lắm). Ngày hôm nay, Thầy lục
lọi giấy tờ sách vở, tình cờ tìm thấy được một
tấm ảnh của Sư Bà lúc Sư Bà 18-19 tuổi. Tấm ảnh
có mặt ở cõi đời này khoảng 70 năm, ảnh đen
trắng đã ố màu, con ba đuôi gặm nhấm lỗ chỗ
nhiều nơi trên tấm ảnh. Sư Bà mặc áo nhật bình
màu lam có dây thắt lưng, đầu chít khăn lam, hai
góc khăn chéo thắt lại sau gáy y hệt như các Ni
Cô Miền Bắc bây giờ. Sư Bà ngồi kiết già bàn tay
phải đặt trên lòng bàn tay trái, dáng ngồi thong
dong. Gương mặt phúc hậu, đôi mắt nhìn xuống,
mũi cao thẳng, miệng hơi rộng. Tóm lại là một Ni
Cô có tướng hảo. Thầy mô tả hơi kỹ về Sư Bà qua
bức ảnh chụp cách đây bảy mươi năm, vì đây là
một kỷ niệm quý của Sư Bà cũng như con cháu
trong đạo của Người còn lại được, nhờ Thầy còn
cất giữ . Nhìn cách ăn mặc và chít khăn kiểu xưa
của Sư Bà Thầy thấy đẹp và trang trọng hơn nhiều
so với cách chít khăn của các Sư Cô ở miền Trung
miền Nam bây giờ, cách chít khăn của các Sư Cô ở
miền Trung miền Nam của mình là mô phỏng bắt
chước các bà sơ Tây phương mới cách đây khoảng
50 năm. Bức ảnh đã lay động, đã nhắc Thầy phải
viết về Sư Bà, kẻo Người đi về Cõi Tịnh thình
lình thì Thầy sẽ mang một món nợ đối với Người .
Hơn mười năm về
trước, Thầy có về chùa Tâm Ấn ở Thành phố Quy
Nhơn kỵ giỗ Hoà Thượng Tịnh Khiết (Sư Bà Y Chỉ
Hoà Thượng Tịnh Khiết). Sư Bà có nói với Thầy:
“Tôi kể lại đời tôi rồi nhờ Thầy viết dùm tiểu
sử tôi, phòng khi ra đi đột xuất thì cũng có
tiểu sử mà đọc cho vui”. ĐệTử Sư Bà rất đông,
nhiều vị văn chương chữ nghĩa giỏi hơn Thầy rất
nhiều, Thầy không dám múa rìu qua mắt thợ, nhưng
Sư bà tin tưởng thương mến nhờ mà không “phụng
mạng” thì thiếu tình và bất kính nên Thầy nhận
lời viết về cuộc đời Sư Bà. Năm đó Sư Bà còn
minh mẫn nhớ rất nhiều kể lại những nét chính về
cuộc đời của mình để Thầy ghi chép lại, tấm ảnh
và thủ bút hai bài thơ của Sư Bà làm ngày còn
trẻ Thầy còn giữ được là do Sư Bà đưa cho Thầy
làm tài liệu trong dịp ấy.
Mới đây Thầy có
được bản tiểu sử của Sư Bà do các Sư cô đệ tử
viết tóm tắt, rằng Sư Bà sinh tại làng Tân An
tỉnh Cần Thơ. Nhưng theo lời Sư Bà kể cho Thầy
nghe thì không phải như vậy.
Sư Bà thế danh là:
Nguyễn Thị Diệp, sinh năm Tân Hợi (1911) quê
quán ở làng Lộ Bao, tổng Nội Duệ, huyện Tiên Du,
phủ Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh trong một gia đình tín
mộ đạo Phật. Thân phụ tên: Nguyễn Văn Liễu, nghề
nghiệp hương chức, biết chữ Hán chữ Nôm và chữ
Quốc ngữ, tính tình chơn chất thiệt thà, không
bao giờ làm mắc lòng hàng xóm. Cụ ông mất năm 51
tuổi. Thân mẫu tên: Đào Thị Lớn, nghề nghiệp
buôn bán dệt vải, mất năm 72 tuổi. Ông Bà sinh
được 11 người con, nhưng hữu sinh vô dưỡng chỉ
còn lại có 3 người: Sư Bà, người anh thứ hai và
một người em út.
Năm Sư bà 9 tuổi
tức là năm Kỷ mùi (1919) gia đình vào Sài Gòn
lập nghiệp được một thời gian rồi dời nhà xuống
tỉnh Cần Thơ sinh sống. Sinh trưởng trong gia
đình mộ đạo, nên đức tin được nuôi dưỡng mỗi
ngày mỗi lớn mạnh. Vào năm Đinh mão (1927) vừa
tròn 17 tuổi được song thân đồng ý Sư Bà xin
xuất gia với Hoà Thượng Thái Ba ở chùa Phước
Long, thuộc Cái Tàu Hạ, Sa Đéc. Ngài Thái Ba ban
cho Pháp Danh là: Giác Liên tự là Diệu Huệ.
Đôi nét về Hoà
Thượng Thái Ba: Còn gọi ngài là Hoà Thượng Tôn
Minh, huý là Đạt Quang, hiệu là Huệ Định, khai
sơn chùa Báo Ân nhưng trụ trì chùa Phước Long.
Ngài thân hình nhỏ nhắn xương xẩu, sóng mũi cao,
hai mắt sáng, giọng nói trong thanh. Thâm uyên
Phật pháp, suốt đời không bao giờ đi xe kéo, khi
tịch ngồi mà hoá thọ 76 tuổi.
Sau khi được Hoà
Thượng Bổn Sư thế độ, Sư Bà phát nguyện trì tụng
Chú Đại Bi từ 3 giờ sáng đến 11 giờ trưa mới
nghỉ. Chiều từ 2 giờ đến 9 giờ đêm. Hơn một năm
Sư bà đã tụng được 3 tạng (một tạng là 6000 biến)
.
(Một tạng là để
đền ơn Thầy Tổ,
Một tạng là để
đền ơn lục thân quyến thuộc,
Một tạng là để
cầu tu cho được trọn đời.)
Thời gian trì
tụng chú Đại Bi là ở tại chùa Báo Ân thị xã Cần
Thơ.
Năm Mậu Thìn
(1928), với ý chí cầu tiến khát khao học hỏi
Phật pháp, Sư Bà đã xin Hoà Thượng Bổn Sư ra Huế
tu học. Lớp học gia giáo của Ni Bộ đầu tiên được
mở tạm tại chùa Từ Đàm do Sư Cụ Trừng Ninh, hiệu
Diệu Hương làm Giám Đốc (khi chưa xuất gia là
người thiếp thứ 7 của vua Thành Thái).
Học tại chùa Từ
Đàm một thời gian ngắn, lớp học được dời qua Ni
viện Diệu Đức. Ban Giáo Thọ trước sau gồm có các
Ôn: Mật Hiển, Trí Thủ, Mật Nguyện, Mật Thể, v.v.
Năm Canh Ngọ
(1930) Sư Bà được 20 tuổi, thọ giới Sa Di và xin
Y Chỉ với Hoà Thượng Tịnh Khiết (Hoà Thượng Tịnh
Khiết là Đức Tăng Thống đệ nhất của Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất). Hoà Thượng đặt
pháp danh cho Sư Bà là Tâm Hoa, tự Diệu Liên,
hiệu Thiền Dung. Lúc bấy giờ Hoà Thượng Bổn Sư
của Sư Bà đã tịch.
Những năm tháng
đó các lớp gia giáo Phật pháp, không có lớp nào
mở dạy được lâu vì nhiều lý do, nhưng cơ bản
nhất vẫn là kinh tế khó khăn. Ni viện Diệu Đức
giáo dưỡng Ni Chúng được một thời gian ngắn rồi
đem Ni chúng vào Sa Đéc tòng học tại trường gia
giáo do Bà Ba Sàng xây dựng và cung cấp lương
thực (nhờ buôn bán hột xoàn mà trở nên giàu có
nên gọi là Bà Ba Xoàn). Lớp học này Ni Chúng gần
cả trăm.
Ban Giám Đốc gồm
có các vị: Ôn Mật Hiển, Sư Cụ Kim Huê, Thầy Hải
An pháp tự Diệu Tịnh (ni). Lớp học duy trì được
3 tháng. Sau dời lên chùa Vạn An (Sa Đéc) học
tiếp 9 tháng. Rồi chuyển Ni chúng qua chùa Linh
Phước của Bà Bang Biện học đươc 1 năm. Chùa Linh
Phước ở Cai Khoa, Sa Đéc, năm học này do Bà Bang
Biện cung cấp lương thực.
Ban Giáo Thọ dạy
tại chùa Linh Phước gồm có các vị: Hoà Thượng
Chánh Quang, Hoà Thượng Huyền Cơ, Sư Cụ Diệu
Tịnh-Hải An, thời gian sau bổ sung thêm Hoà
Thượng Giác Tâm. Đồng học với Sư Bà trong thời
điểm đó gồm có các Sư Bà: Bảo Quang, Viên Minh,
Huyền Học, Huyền Tông, Từ Nguyên, Hải Huệ, Huyền
Phương.
Năm Ất Hợi (1935)
Sư Bà về ở tại chùa Sanh Liên, Bình Định (ngôi
chùa này do Hoà Thượng Tịnh Liên sáng lập, sau
đó cúng lại cho Sư Bà). Năm Bính Tý (1936) Sư Bà
theo học lớp Phật pháp mở tại chùa Hải Đức, Nha
Trang. Lớp học này do Hoà Thượng Giác Phong (Bích
Không) phụ trách.
Học Tăng gồm có
các Hoà Thượng: Thích Kế Châu, Thích Bình Chánh,
Thích Bích Nguyên, Thích Thiện Thừa, Thích Viên
Minh, Thích Viên Nguyện. Học Ni thì có: Sư Bà
Huyền Học, Tâm Đăng … Học được một năm.
Năm Mậu Dần
(1938) Sư Bà chính thức nhận chức Trú Trì chùa
Sanh Liên, ở An Nhơn - Bình Định.
Năm Canh Thìn
(1940) Sư Bà thọ giới Tỳ Kheo tại Giới Đàn mở
tại Phan Thiết. Giới Đàn này do các vị sau đây
truyền giới: Ngài Phổ Thiên làm Đường Đầu Hoà
Thượng, Hoà Thượng Trí Thủ làm Yết Ma A Xà Lê,
Hoà Thượng Mật Nguyện làm Giáo Thọ A Xà Lê.
Cùng thọ Giới Đàn
này có các Sư Bà: Huyền Tông, Huyền Học, Tâm
Đăng, Huyền Căn, Huyền Giáo, Huyền Huệ.
Từ năm 1945-1954
Sư Bà ở chùa Sanh Liên dạy dỗ đồ chúng, cùng đệ
tử dệt vải, làm nông tự túc sống. Trong thời
gian 9 năm kháng chiến Sư Bà trùng tu chùa Sanh
Liên trở lại, nguyên lợp tranh vách đất.
Năm Giáp Ngọ
(1954) Sư Bà có ở chùa Diệu An, Phan Rang một
năm. Rất say mê giáo lý Viên Dung vô ngại của
Kinh Hoa Nghiêm nên thời gian này Sư Bà để tâm
nghiên cứu và hành trì Kinh Hoa Nghiêm (trước đó
Sư Bà rất thích tư tưởng của bộ Kinh Lăng Già
Tâm Ấn, có lẽ đặt hiệu chùa Tâm Ấn là để nhớ lại
bộ Kinh mà mình mến mộ). Mùa hạ năm Ất Mùi
(1955) Sư Bà an cư tại Đà Lạt (có lẽ tại chùa
Linh Phong).
Tháng 7 năm 1955
Sư bà về Quy Nhơn xây dựng chùa Tâm Ấn, đến năm
1956 thì hoàn thành. Chùa Tâm Ấn trước đó ở gần
nhà ga xe lửa Quy Nhơn.
Năm 1961-1962 với
lòng thương lớn Sư Bà đã vận động quyên góp xây
dựng Cô Ký Nhi Viện, nhân nuôi dưỡng các cháu mồ
côi, vô thừa nhận, duy trì đến năm 1975. Cùng
năm 1962 Sư Bà trùng tu chùa Sanh Liên một lần
nữa.
Năm 1964 đến nay
Sư Bà là vị Ni Trưởng đại diện cho Ni Bộ tỉnh
Bình Định .
Năm 1967, tại xã
An Mỹ, thị xã Pleiku, tỉnh Gia Lai có hai Phật
tử là Mai Lực và Trần Thị Hạnh hiến cúng cho Sư
Bà đất vườn và một ngôi nhà thờ nhỏ của giòng
tộc. Sư Bà đã nhận và tái thiết thành ngôi chùa
đặt tên là An Thạnh.
Năm 1967 Sư Bà
Như Huệ (Quản viện chùa Từ Nghiêm, Sài Gòn)
hướng dẫn phái đoàn Chư Ni sang hành hương các
nước Phật Giáo Á đông như Nhật Bản, Đài Loan,
Hồng Kông để tìm hiểu thêm về Đạo Phật ở các xứ
này. Sư Bà có cùng tháp tùng trong chuyến hành
hương này.
Năm 1973, Hoà
Thượng Thanh Từ viện chủ Tu Viện Chơn Không ở
Vũng Tàu, mở khoá tu học Thiền, khôi phục lại
tinh thần Thiền Tông Việt Nam. Theo khoá trình
mỗi tháng một tuần lễ. Sư bà đã xin vào khoá tu
này để tìm hiểu và thực hành Thiền (thời gian
khoảng hai năm).
Giai đoạn tham
học này, Sư Bà cảm nhận yếu chỉ của Thiền Tông
một cách rất sâu sắc. Kinh điển trước đây học ở
Ni Viện Diệu Đức- Huế và Thích Nữ Học Đường (trường
Gia Giáo) ở Sa Đéc có chỗ còn mập mờ chưa nắm
hết những ý thú sâu nhiệm. Qua khoá tu này Sư Bà
đã hiểu được huyền nghĩa uyên áo của Kinh Điển.
Năm 1982, tuy đã
lớn tuổi nhưng vẫn say mê tìm hiểu giáo lý Thiền
Tông. Sư Bà vào Sài Gòn tham học Thiền với Thiền
Sư Duy Lực chùa Từ Ân. Thiền Sư Duy Lực người
gốc Hoa là điệt tôn của ngài Lai Quả. Ngài Lai
Quả đồng thời với Ngài Hư Vân, là danh tăng lỗi
lạc của Trung Quốc cận đại. Phái Thiền này tu
theo phương pháp tham công án.
Mặc dù rất ham
học hỏi nghiên cứu Thiền Tông, song trong thời
khoá hằng ngày Sư Bà vẫn áp dụng pháp môn niệm
Phật, vì Sư Bà nhận biết nếu giây phút hiện tại
mà sống có chánh niệm, thì Tịnh Độ chính trong
giây phút hiện tiền, chứ không cách đây mười
muôn ức cõi Phật gì hết. Do vậy Sư Bà luôn dung
hợp giáo lý Thiền Tịnh, trong tu tập cũng như
hướng dẫn đệ tử hằng ngày.
Đệ Tử xuất gia và
tại gia mỗi ngày mỗi đông, mà chùa Tâm Ấn xây
dựng năm 1956 tại đường Tăng Bạt Hổ thành phố
Quy Nhơn cũng đã xuống cấp và nhỏ hẹp so với nhu
cầu sinh hoạt, nên vào năm 1995 Sư Bà đã quyết
định trùng tu lại để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng
quần chúng và tạo thêm cảnh quan cho quê hương
đất nước. Lần trùng tu này chùa Tâm Ấn trở thành
một danh lam của tỉnh Bình Định.
Vì muốn có người
“Truyền Đăng Tục Diệm”, thắp sáng ngọn đuốc
chánh pháp, nên Sư Bà rất quan tâm tổ chức Giới
Đàn. Sư Bà làm Chủ Đàn, Đường Đầu Hoà Thượng,
Yết Ma, Giáo Thọ A Xà Lê, cho các Giới Đàn…
Sư Bà có nhiều
điểm hơi khác thường: Khi mới sinh ra thì đầu có
chỏm tóc như các Điệu, lớn lên thì vóc dáng có
tướng nam, ý chí thì sắc đá kiên định, không bao
giờ bỏ cuộc nửa chừng.
Hôm đó Thầy có
hỏi Sư Bà: “Trong kinh Phật hay nói đến đàn bà
nghiệp chướng rất nặng khó tu, cho nên trong
giới nữ tu ai cũng muốn tu tập hết đời này khi
tái sinh được chuyển thân nữ thành thân nam. Còn
riêng Sư Bà thì sao? Cả một đời tu tập hành đạo,
lo lắng cho Phật Pháp, cho Ni chúng. Khi mãn
duyên ở cõi Ta Bà, Sư Bà có muốn vãng sanh cõi
Cực Lạc hay không? Có muốn đổi thân nữ thành nam
để dễ tu tập và hành đạo như một số đông trong
Ni giới mong ước hay không?”
Sư Bà trả lời:
“Cuộc đời tu tập hành đạo của tôi nếu có được
chút công đức, phước đức gì, thì tôi xin Phật
cho tôi kiếp sau được trở lại làm thân nữ để tu
tập và dìu dắt Ni chúng tiếp. Bởi vì có làm thân
nữ mới hiểu thấu được niềm đau nỗi khổ của giới
nữ mà độ họ hiệu quả hơn”.
Viết và kể về
cuộc đời của Sư Bà cho các con nghe mà không đưa
bài thơ này vào trang tiểu sử lỡ thất lạc đi thì
uổng lắm! Đó là một bài thơ Sư Bà làm năm người
21 tuổi. Bài thơ như một bài tuyên ngôn và Sư Bà
đã thực hiện được toàn vẹn bài tuyên ngôn đó cho
đến cuối đời.
Nam mô chư Phật
chứng cho lòng
Bể khổ thuyền từ
nguyện lướt xông
Rán sức đánh tan
đoàn chướng thuỷ
Ra tay dằn dẹp
đám cuồng phong
Nguyện đưa ni
chúng lên bờ giác
Thệ dắt nữ lưu
khỏi bụi hồng
Tòng bá há nài
cơn tuyết đổ
Vào sinh ra tử
cũng như không.
Không ai nghĩ
rằng 92 năm trước nơi vùng Kinh Bắc (trung tâm
Phật Giáo Luy Lâu của những kỷ nguyên đầu tây
lịch) một cô bé mới sinh ra trên đầu có ba chỏm
tóc trái đào, hơi lạ so với các cháu bé gái khác
một chút. Chính cái lạ đó để 92 năm sau trở
thành một chứng nhân của thế kỷ, trở thành một
cây đại thụ Bồ Đề của Phật Giáo toả bóng mát che
chở cho rất nhiều chúng sinh hữu duyên. Một hạt
Bồ Đề năm xưa của vùng quan họ Bắc Ninh đã nhân
trồng ra thành nhiều cây Bồ Đề trong nước: Long
Thành- Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Sài Gòn,
Pleiku –Gia Lai, Bình Định-Quy Nhơn, và cả ở
nước ngoài nữa.
Nhìn lại sự
nghiệp một đời tu của Sư Bà để lại, Thầy trò
chúng ta hết sức kinh ngạc thán phục: Một chùa
Tâm Ấn kiến trúc mỹ thuật, nguy nga. Một chùa
Sanh Liên lặng lẽ giáo dưỡng Ni chúng. Một chùa
An Thạnh thầm lặng nhưng đóng góp đạo đức vô
hành. Gần năm mươi đệ tử xuất gia làm hạt nhân
cho tương lai giáo hội. Gần ngàn đệ tử tại gia
thân cận hộ trì Phật Pháp. Tiếp nối hạnh nguyện
của Thầy mình, đệ tử của Sư Bà khắp nơi chốn đã
mở mang mối đạo.
Vĩ đại thay cao
cả thay tấm lòng của một bậc Đại Trượng Phu dưới
hình hài của người nữ. Thân tứ đại của Sư Bà tuy
không còn hiện hữu ở cõi đời nữa, nhưng Pháp
Thân của Sư Bà thì bất sanh bất diệt. Trong gia
đình tâm linh Sư Bà đã sanh con cháu quá nhiều,
muôn đời tiếp nối.
Với đại nguyện
mang thân nữ trở lại cõi Ta Bà hoá độ Ni giới (và
cho tất cả chúng ta nữa) các giới Cận sự nam,
Cận sự nữ ,đệ tử của Sư Bà bằng tuệ giác của nhà
Phật hãy cẩn trọng thai giáo và khi sinh ra hãy
nuôi dưỡng, un đúc đức tin tạo duyên cho các
cháu phát triển hạt giống Bồ Đề. Bởi vì biết đâu
trong các cháu bé thân thương đó có Sư Bà của
chúng ta.
Chùa Bửu Minh-Gia Lai
Mùa An Cư Phật
Lịch 2546
Thích Giác Tâm
Biên Soạn
|