Tinh Thần Phá Chấp
Thích Nhật Hiếu
Những nỗi nghiệt
ngã của cuộc đời đều do chấp thủ cực đoan mà ra.
Thủ chấp là mặt trái của sự khổ đau.
Nó được
hình thành từ sự cố chấp, thành kiến sâu nặng
nơi tham ái, sân hận, si mê ở mặt cạn cợt thô
thiển và ngay cả sự cố chấp vào những lý tưởng
tôn thờ như sắc tộc, tôn giáo và chủ nghĩa cực
đoan ở mặt tế nhị sâu xa.
Chấp thủ, con đường đi đến khổ đau
Thủ chấp vào
những luận thuyết, những ý thức hệ cực đoan,
được hình thành trên tư duy Hữu ngã, là động cơ
dẫn đến tham ái (tanhà), hận thù (dosa) và tà
kiến (micchaditthi); nguyên nhân chính dẫn đến
các thành kiến, xung đột, chiến tranh, bạo lực,
khủng bố… giữa các chủ nghĩa, tôn giáo, quốc gia,…
gây ra bao sự bất hạnh, sợ hãi, xao xuyến cho
nhân loại trên thế giới xưa nay.
Đức Phật đã cảnh
báo: “Một
người không có thái độ hoan hỷ đón mừng, chấp
trước đối với những lý luận vọng tưởng, thì thấy
là đoạn tận các tùy miên tham, sân nghi, kiến
mạn, hữu tham, đoạn tận đấu tranh bằng lời, bằng
gươm giáo; đoạn tận lý gián ngữ, vọng ngữ. Các
bất thiện pháp ấy được tiêu diệt không có dư tàn”(1).
Thủ chấp tạo nên
bức tường thành kiến; tùy theo mức độ, nó là đầu
mối của mọi xung đột và đối kháng xã hội như:
giữa cá nhân với cá nhân, giữa đoàn thể với đoàn
thể, giữa tôn giáo và tôn giáo, giữa chủ nghĩa
và chủ nghĩa, giữa sắc tộc này với sắc tộc khác,
giữa đảng phái này và đảng phái khác, v.v… hình
thành làn sóng xung đột đấu tranh, gây nhiều nỗi
bất an, điêu linh cho nhân loại và sự sống toàn
cầu. Hơn thế nữa, nó gây chướng ngại biết dường
nào cho người học đạo trên tiến trình đi tìm cầu
chân lý giải thoát.
Giáo pháp cũng chỉ là phương tiện
Trên hành trình
dấn thân phụng sự, hành giả phải lập công bồi
đức, tu tập phước lành, gieo trồng thiện căn,
phước đức nhân duyên như là một hành trang, một
phương tiện hoàn bị để phục vụ cho hành giả trên
lộ trình hướng đến điểm đích giác ngộ giải thoát.
Cổ đức dạy: “Phật sự môn trung bất xả nhất
pháp” (trong việc Phật sự không câu nệ một
giải pháp nào). Nhưng nên biết đó cũng chỉ là
phương tiện mà thôi. Mà cứu cánh của các phương
tiện này chính là mục tiêu giác ngộ giải thoát.
Phật dạy: “Giáo
pháp như chiếc bè để sang sông, không phải để ôm
giữ; phải hiểu, Chánh pháp còn xả bỏ huống hồ
phi pháp”(2). Hay: “Giáo pháp như ngón
tay để chỉ mặt trăng. Muốn thấy được mặt trăng,
nên biết ngón tay để chỉ mặt trăng tuyệt đối
không phải mặt trăng”(3).
Tất cả mọi phương
tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc
sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay
phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
Không những thủ chấp về ác pháp (adhamma) bị lên
án, mà ngay cả những thủ chấp về thiện pháp (dhamma)
cũng bị Đức Phật khiển trách, xem đó là trở ngại
lớn cho tiến trình giải thoát.
Phá chấp con đường khai phóng, tối thượng
thừa
Phật dạy: “Tu
đạt đến vô tu mới thật là tu, hành đạt đến vô
hành mới thật là hành, chứng đạt đến vô chứng
mới thật là chứng”(4).
Thật vậy, nếu tu
mà không đạt đến trình độ vô tu thì chưa thật sự
là tu, hành mà không đạt đến trình độ vô hành
thì chưa thật sự là hành, chứng mà không đạt đến
trình độ vô chứng thì cũng chính là trở chứng.
Còn nữa, một
người tu theo tâm nguyện của Bồ Tát, Đức Phật
dạy: “Phát cái nguyện lớn như hư không, hành
cái hạnh lớn như hư không, chứng cái quả lớn như
hư không, nhưng cái tướng hư không ấy cũng không
thể được”(5).
Đây chính là đức
tính khiêm cung, tận tụy với lý tưởng phục vụ,
hy sinh mà không hề thấy thua thiệt của hành giả
chân tu và thật học, không phải là hạng người
chạy theo chủ nghĩa thành tích, đánh trống khua
chuông, thùng rỗng kêu to.
Đặc biệt, tinh
thần triệt phá chấp thủ táo bạo nhất qua lời phê
phán mạnh mẽ của Đức Phật: “Nếu dùng sắc
tướng để thấy ta (Phật), dùng âm thinh để thấy
ta, là kẻ đang thực hành tà đạo, không bao giờ
thấy được Như Lai”(6).
Phật
dạy: “Tu Bồ Đề!
Các ông phải y
như lời ta dạy đây, mà hàng phục vọng tâm của
mình. Các vị đại Bồ Tát phải độ tất cả các loại
chúng sinh (như loài sinh trứng, loài sinh con,
loài sinh chỗ ẩm thấp, loài hóa sinh, loài có
sắc, loài có tưởng, loài chẳng phải không tưởng,
v.v…) đều được nhập Niết bàn. Bồ Tát tuy độ vô
lượng vô số chúng sinh như vậy, nhưng không thấy
có một chúng sinh nào được độ. Tại sao vậy? Nếu
Bồ Tát còn thấy có mình độ và chúng sinh được độ,
tức là Bồ Tát còn chấp bốn tướng (tướng ngã,
tướng nhơn, tướng chúng sinh và tướng thọ giả)
thì không phải là Bồ Tát”.
Bồ Tát độ sinh,
phải dùng Trí tuệ Bát nhã, phá các vọng chấp ngã,
nhơn, v.v… đó là phương pháp “hàng phục vọng tâm”.
Bồ Tát muốn biết
mình còn phiền não vọng chấp hay không, để diệt
trừ, tất nhiên phải lao mình vào phiền não;
nghĩa là phải nhập thế độ sinh, làm các Phật sự.
Bồ Tát khi nhập
thế độ sinh làm các Phật sự, luôn luôn phải dùng
Trí Tuệ Bát Nhã phá trừ các chấp ngã, chấp pháp,
không còn thấy bốn tướng (ngã nhơn, v.v…) thì
phiền não vọng chấp không sinh. Đó là phương
pháp “hàng phục vọng tâm”.
Hay: “Chung
nhật độ sinh vô sinh khả độ”. (Ngày nào cũng
cứu độ chúng sinh nhưng không thấy một chúng
sinh nào được độ).
Nếu Bồ Tát vừa
khởi vọng chấp: “…có mình độ và người được độ,
v.v…”, tức là Bồ Tát còn ngã, nhơn, bỉ, thử, thì
vô số phiền não đua nhau nổi lên như sóng. Cổ
nhơn nói: “Nhứt ba tài động, vạn ba tùy”. (Một
lượn sóng vừa nhô lên, thì trăm ngàn lượn sóng
liền theo đó mà nổi lên).
Nếu Bồ Tát còn vô
minh phiền não vọng chấp nổi lên, thì không phải
là Bồ Tát; vì chưa nhập được Trí tuệ Bát nhã.
Thật vậy, ở đời
lắm kẻ sống với chủ nghĩa hình thức, mà người tu
phải sống bằng tấm lòng. Phật ở tại tâm! Và dân
gian cũng có nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”,
hay: “Quen sợ dạ, lạ sợ áo”. Sống không phải câu
nệ, vẽ vời hình thức; hãy để tâm hồn mình thanh
thản trong phút giây trở về nơi chính mình, trở
về với lẽ “bình thường tâm thị đạo”, trong cái
bình thường này sẽ toát lên sự nhiệm mầu của cái
phi thường: ăn, ngủ, làm việc, tu tập… bằng cả
tấm lòng, sống hết lòng trong phút giây hiện tại.
Vì biết rằng: “Vô thường là thường, là pháp sinh
diệt - Sinh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui”. (Vô
thường thị thường, thị sinh diệt pháp, Sinh diệt
diệt dĩ, tịch diệt vi lạc).
Đức vua Thiền sư
Trần Nhân Tông cũng dạy trong phú Cư Trần Lạc
Đạo rất nổi tiếng:
“Sống đời vui
đạo hãy tùy duyên
Hễ đói thì ăn,
mệt ngủ liền
Trong nhà có ngọc
thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm
chớ hỏi thiền”.
(Cư trần lạc đạo
thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề
khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo
hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm
mạc vấn thiền).
Hơn nữa, Lục Tổ
Huệ Năng đã dạy trong kinh Pháp Bảo Đàn, lời lẽ
bình dị nhưng ý tứ thật siêu thoát: “Tâm bình
thì việc gì phải tu thiền - Hạnh trực thì lo gì
phải trì giới”. (Tâm bình hà dụng tu thiền -
Hạnh trực hà lao trì giới).
Tương tự, với
tinh thần vô chấp thông thoáng trên, Tuệ Trung
Thượng Sĩ đã dạy: “Khi nào mỏi mệt tâm tự dứt
- Chẳng cần niệm Phật chẳng ngồi thiền”. (Tự
thị quyện thời tâm tự tức - Bất quan nhiếp niệm
bất quan thiền).
Với Tuệ Trung,
một con người bản lĩnh, một con người xem danh
lợi như đôi dép bỏ, một con người đóng nhập vai
Thượng sĩ giáng trần: vào hàng tôn quý là tôn
quý của tôn quý và vào hàng hạ tiện là hạ tiện
của hạ tiện; không hề bị cái danh phận này ràng
buộc: “Về vui với đạo thôi, ẩn sơn lâm - Xa
bỏ lợi danh thôi, lánh thị triều”. (Quy dư
đạo ẩn hề sơn lâm, Khôi khước lợi danh hề triều
thị).
Bình thản và
thong dong trước lẽ sống và cái chết, bản lãnh
ấy đã thể hiện qua hai vần thơ: “Kẻ ngu sống
chết mãi lo âu - Người trí rõ thông nhàn thôi
vậy”. (Ngu nhơn điên đảo bố sinh tử - Trí
giả đạt quan nhàn nhi dĩ).
Sống không câu nệ
vướng bận, cho dù đó là sự vướng bận của một
chút gì của luật tắc, luân lý và đạo đức ở đời.
Đây là đạo phong của bậc xuất trần. Tinh thần vô
chấp này đã vượt lên mọi sự ràng buộc của thế
giới nhị nguyên: thiện và ác, tốt và xấu, chánh
nghĩa, và phi nghĩa, v.v. Tinh thần thông thoáng
này được nhận thấy qua tư tưởng của Tuệ Trung
Thượng Sĩ: “Thịt
cá qua đường ruột, Phật ở tại tâm”.
Vượt lên mọi đối
đãi của nhị nguyên hữu vô, hình thức và ngôn ngữ.
“Thà rằng chấp có như hư không, còn hơn chấp
không như hạt cải” (Ninh chấp hữu như hư
không, mạc chấp không như giới tử). Hay: “Ý tại
ngôn ngoại” (Ý nghĩa nằm bên ngoài lời nói).
Vả lại, để thực
thi sứ mạng độ sinh, dấn thân nhập cuộc, ta
không vào địa ngục thì ai vào? Như việc thõng
tay vào chợ đời mà không nhuốm nhiễm bụi trần,
hóa đạo chúng sinh nhưng không hề bị tha hóa
nhân cách hay băng hoại tâm hồn!
Nhìn chung, tinh
thần vô chấp giúp con người xóa bỏ mọi thành
kiến, mặc cảm, tự ti, tự phụ… giúp chúng ta hoàn
thiện nhân cách, tạo nhịp cầu cảm thông, nới
rộng vòng tay nhân ái giữa mọi người; hòa quang
đồng trần, lồng mình vào pháp giới chúng sinh.
Tinh thần này là con đường giáo dục khai phóng,
kích khởi trí tuệ của con người, xóa tan mọi áng
mây si mê, mọi kiến chấp sai lầm của học thuyết,
chủ nghĩa, đang vần vũ trên bầu trời tri thức
của nhân loại, giúp con người thoát ly được bao
sự ràng buộc của tham lam, sân hận, si mê và sợ
hãi. Nhờ đó, con người phát huy trọn vẹn năng
lực sáng tạo một cách sinh động đem lại sự bình
an, hạnh phúc cho chính mình và thế giới quanh
mình. Hơn nữa, trạng thái không chấp thủ còn là
tâm lý hành xả cao nhất trong Tứ thiền, Tứ gia
hạnh hay cũng chính là mục tiêu tối hậu của hành
trình giải thoát.
Thích Nhật Hiếu
(1)
Majjhima Nikàya I, No18, Madhupindika sutta,
Nànamoli, 1995, P.202.
(2) Majjhima
Nikàya I, No 22, Nànamoli, 1995, P.229: “The
Dhamma is similar to a raft, being for the
purpose of crossing over, not being for the
purpose of grasping. When you know the Dhamma to
be similar to a raft, you should abandon even
good states, how much note so bad states”. =
Taishò No8, K. Kim Cang Bát Nha, 748, Sh 235:
Như Lai thuyết pháp du như phiệt dụ, pháp thượng
ưng xá hà huống phi pháp”. (3) Taishò No 17, K.
Viên Giác, PP. 917a - 917b: “Tu-đa-la giáo như
tiêu nguyệt chỉ. Nhược phục kiến nguyệt, liễu
tri sở tiêu, tất cánh phi nguyệt”. (4) Kinh Bát
Nhã: Tu vô tu tu, hành vô hành hành, chứng vô
chứng chứng. (5) Ibid: Phát hư không chi nguyện,
hành hư không chi hạnh, chứng hư không chi quả,
diệc vô khả đắc hư không chi tướng. (6) Nhược dĩ
sắc kiến ngã, dĩ âm thinh cầu ngã, thị nhơn hành
tà đạo, bất năng kiến Như Lai (Kinh Kim Cang).
|