HÒA THƯỢNG THÍCH ĐỖNG QUÁN
TRƯỞNG BAN ĐIỀU HÀNH LÂM THỜI THIỀN PHÁI LÂM TẾ
CHÚC THÁNH - TRÚ TRÌ SẮC TỨ TỔ ĐÌNH THIÊN HÒA
Môn Đồ Pháp Quyến
I. THÂN THẾ
Hòa Thượng Thích
Đỗng Quán thế danh Đỗ Châu Đức sinh năm Bính Dần
(1926) tại thôn Quan Quang, xã Nhơn Khánh, huyện
An Nhơn, tỉnh Bình Định. Hoà thượng sinh trưởng
trong gia đình có truyền thồng nhiều đời thâm
tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Đỗ Hoạch, thân
mẫu là cụ bà Trần Thị Tú. Thân sinh Hoà thượng
có 5 người con, hai trai ba gái, hai người con
trai xuất gia và trở thành một trong những danh
tăng có nhiều đóng góp cho Phật giáo Miền trung
và cả nước đó là Hoà thượng Thích Đỗng Quán và
Hoà thượng Thích Đỗng Minh.
Tuy gia đình Hoà
thượng sống ở nông thôn, nhưng song thân của
Ngài rất chú trọng đến giáo dục và học hành của
con cái, nên từ thuở thiếu thời Hoà thượng đã
được song thân cho theo học chữ Hán với các nhà
nho tại địa phương đồng thời theo học Tiểu học.
Hoà thượng đã đậu Tiểu học năm 1940.
HT Thích Đỗng Quán cùng chư tôn Trưởng Lão môn
phái Chúc Thánh Minh Hải Bình Định tại Chùa Hưng
Khánh
(ảnh PGĐC chụp năm 1998)
II. XUẤT GIA HỌC
ĐẠO
Tuy tuổi nhỏ
nhưng nhờ túc duyên từ trước do vậy Hoà thượng
sớm nhận thức cuộc đời là vô thường, thế gian
tạm bợ cho nên tâm nguyện xuất gia lúc nào cũng
hun đúc trong lòng. Ngày rằm tháng 8 năm 1941,
Ngài đến chùa Khánh Vân, thôn Văn Quang, xã
Phước Quang xin tập sự sống đời sống xuất gia
với cố Hoà thượng Chơn Quang (là chú ruột).
Năm 1942 cố Đại
lão Hoà thượng Thích Trí Thắng đưa Ngài vào chùa
Thiền Lâm, Phan Rang. Nơi đây Ngài lạy Đại lão
Hoà thượng Thích Huyền Tân làm Bổn sư và được
cho pháp danh: Thị Quảng, tự Hạnh Nhơn, hiệu
Đỗng Quán, Hoà thượng là vị đệ tử xuất gia đầu
tiên của Ngài Huyền Tân.
Năm 1943, sau khi
xuất gia một năm, vì sự nghiệp hoằng dương Phật
pháp, đào tạo tăng tài nên Hoà thượng Bổn sư gửi
ngài về Bình Định theo học lớp phật pháp tại Tổ
đình Long Khánh, Quy Nhơn.
Từ năm 1946 đến
năm 1953, Hoà thượng tu học tại chùa Hưng Long
theo học chương trình Trung học tại trường Thị
Nại ở Biểu Chánh, cũng trong thời gian này Hoà
thượng cùng một số huynh đệ trong tỉnh Bình Định
tiến hành một số công việc phật sự.
Năm 1950 vâng lời
Đại lão Hoà thượng Thích Giác Tánh, Hoà thượng
cùng một số chư tăng trẻ Bình Định thành lập
chúng Lục Hòa tại chùa Tịnh Liên, do Hoà thượng
Giác Tánh lãnh đạo.
Sau ngày phân
chia đất nước 1954. Từ năm Giáp ngọ 1954 đến năm
Mậu tuất 1957, Hoà thượng cùng một số pháp hữu
như: Hoà thượng Thích Đồng Thiện, Hoà thượng
Thích Tâm Hiện, Hoà thượng Thích Liễu Không, Hoà
thượng Thích Từ Hạnh, Hoà thượng Thiện Nhơn, Hoà
thượng Thích Tâm Lâm… theo học lớp Trung đẳng
phật học tại Tăng học đường Trung Việt do Tổng
Hội Phật giáo Trung phần tổ chức tại chùa Long
Sơn, Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, do Hoà thượng
Thích Huyền Quang làm Giám đốc.
Năm 1957 Hoà
thượng thọ Tỷ kheo tại Đại giới đàn chùa Long
Sơn - Nha Trang do Đại lão Hoà thượng Thích Giác
Nhiên làm đường đầu. Cũng trong thời gian này
Hoà thượng được Hội phật giáo Trung phần đề cử
đi thuyết giảng phật pháp tại các tỉnh: Lâm Đồng,
Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Nam, Quảng Ngãi
Hoà thượng là một trong số các vị giảng sư xuất
sắc đương thời.
Do nhu cầu phát
triển chung của giáo dục Phật giáo, từ năm 1957
Phật học đường Long Sơn Nha Trang và Phật học
đường Báo Quốc Huế hợp nhất thành Phật Học Viện
Trung Phần, đặt tại chùa Hải Đức - Nha Trang,
nơi đào tạo tăng tài cho cả nước.
HT Thích Đỗng Quán cùng chư Tăng môn phái Lâm Tế
Chúc Thánh
tại Tổ Đình Chúc Thánh - Hội An, Quảng Nam
(ảnh PGĐC chụp năm 2004)
III. THỜI KỲ HÀNH
ĐẠO
1. Công tác hoằng
dương chánh pháp
Năm 1958 sau khi
học xong khóa học tại Tăng học đương Long Sơn -
Nha Trang, Hoà thượng cùng các pháp hữu trở về
Bình Định cùng khởi xướng chương trình giáo dục
và đào tạo tăng tài trong tỉnh.
Vì sự nghiệp
hoằng dương Phật pháp, báo Phật ân đức Hoà
thượng cùng một số Chư Tôn đức tỉnh Bình Định
khởi xướng thành lập Tu viên Nguyên Thiều và
được sự hưởng ứng tham gia của hầu hết Chư Tôn
thiền đức trong tỉnh. Ngày 15 tháng 8 năm Mậu
tuất (27/9/1958) Tu Viện Nguyên Thiều được thành
lập, Hoà thượng là một trong 12 thành viên sáng
lập gồm quý Hoà thượng:
Hoà thượng Thích Giác Tánh,
Hoà thượng Thích Tâm Hoàn,
Hoà thượng Thích Huyền
Quang,
Hoà thượng Thích Bảo An,
Hoà thượng Thích Quang Ngọc, Hoà thượng Thích
Minh Quang, Hoà thượng Thích Bửu Quang, Hoà
thượng Thích Đồng Thiện, Hoà thượng Thích Đỗng
Quán, Hoà thượng Thích Liễu Không, Hoà thượng
Thích Thiện Nhơn, Hoà thượng Thích Như Bửu, đồng
thời Hoà thượng cũng là thành viên Ban quản trị
Tu viện trong những ngày đầu thành lập.
Cuối năm 1963,
Hội đồng quản trị Tu viện Nguyên Thiều quyết
định thành lập trường Bồ đề Nghĩa Thục xây dựng
tại đồi Tháp Bạc (trước Tu viện Nguyên Thiều).
Sau vì chiến tranh trường Bồ đề Nghĩa Thục được
dời về Thị trấn Diêu Trì, huyện Tuy Phước, lấy
tên là Trường Trung học tư thục Bồ đề Nguyên
Thiều Diêu Trì, Ban quản trị nhất trí đề cử Hoà
thượng làm Giám đốc.
2. Dịch thuật và
biên soạn.
Mặc dù đang bận
nhiều công tác phật sự Hoà thượng vẫn dành thời
gian tham cứu phật pháp, đặc biệt Hoà thượng rất
đắc ý với môn Duy Thức Học, Hoà thượng đã trước
tác quyển: Khái quát về nhân minh nhập chánh lý
luận, ngoài ra Hoà thượng còn bỏ nhiều công sức
sưu tầm, nghiên cứu lịch sử
Thiền phái Lâm Tế Chúc
Thánh.
Hoà thượng đã
biên soạn và dịch một số tác phẩm như sau:
- Những tự viện
khai sáng, tái thiết, hoằng dương theo hệ phái
Lâm Tế Chúc đã được truy tầm.
- Nhân minh luận
giáo khoa.
- Kinh Kim Cang
giáo khoa.
- Lược sử các Tổ
đình.
- Tiểu sử Danh
Tăng.
Đồng thời Hoà
thượng còn cộng tác với Ban biên tập Tiểu sử
Danh tăng Việt nam thế kỷ 20.
3. Xiển dương Môn
phái
Thuở sinh thời,
Hoà thượng thường rất ưu tư về
Tông môn Hệ phái nhất là
Thiền phái Chúc Thánh do Tổ sư Minh Hải Pháp Bảo
khai sáng tại Việt Nam và truyền thừa khắp miền
Nam. Thời gian trước năm 1975 dù có rất nhiều
công việc phật sự cần phải làm, Hoà thượng đã
thu thập tài liệu về Thiền Phái Lâm Tế Chúc
Thánh…
Từ năm 2000 Hoà
thượng dành nhiều thời gian đi thăm viếng khắp
các tỉnh miền Trung và miền Nam, vận động Chư
tôn đức trong
môn phái Lâm Tế Chúc Thánh thành lập
Ban điều hành của Môn phái. Sau nhiều năm kiên
trì vận động, đến năm 2004 Ban điều hành lâm
thời được hình thành và Hoà thượng được mời làm
Trưởng ban điều hành lâm thời cho đến ngày viên
tịch.
Ngày 17/12/2004
(1.11.Giáp Thân) ngày kỷ niệm Tổ khai sơn viên
tịch, Hoà thượng được Môn phái Chúc Thánh suy cử
làm Trưởng ban trùng tu Tổ đình Chúc Thánh tại
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
4. Xây dựng và
trùng tu
Năm 1958 Tu Viện
Nguyên Thiều được thành lập, Hoà thượng là người
có nhiều đóng góp to lớn cho công tác xây dựng
Tu viện.
Cuối năm 1963 xây
dựng trường Trung học tư thục Bồ Đề Nguyên Thiều,
tại thị trấn Diêu Trì, huyện Tuy Phước.
Năm 1971, Hoà
thượng khởi công tái thiết chùa Sắc tứ Tịnh Liên
do Đại lão Hoà thượng Cao Minh khai sơn. Tại
thôn Liêm Trực, Thị trấn Bình Định, huyện An
Nhơn, tỉnh Bình Định.
Năm 1972 Môn phái
đề cử Hoà thượng đảm nhận chức vụ Trú trì chùa
Sắc tứ Thiên Hòa, thôn Tri Thiện, xã Phước Quang,
huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Sau khi nhận
trú trì Hoà thượng dự kiến và chuẩn bị đại trùng
tu chùa, trong khi chuẩn bị các mặt cho việc
trùng tu thì gặp phải giai đoạn xã hội thời cuộc
thay đổi, kinh kế ngày một khó khăn, do vậy ý
định trùng tu phải tạm thời dừng lại… Mãi đến
năm 2000 khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới,
kinh kế dần dần ổn định công việc trùng tu mới
bắt đầu tiến hành, tuy nhiên chùa thuộc vùng
nông thôn, đồng bào phật tử tại địa phương ít và
kinh tế hạn cuộc nên việc trùng tu phải kéo dài
nhiều năm chùa Thiên Hòa mới được khang trang
như ngày hôm nay.
Suốt thời gian tu
học, hành đạo, Hoà thượng đã ở nhiều nơi nhưng
có lẽ chùa Thiên Hòa là nơi Hoà thượng dừng chân
lâu nhất, đồng thời chùa Thiên Hòa được như ngày
hôm nay có sự đóng góp lớn lao của Hoà thượng.
5. Nhiếp hóa đồ
chúng
Trong công cuộc
truyền đăng tục diệm Hoà thượng đã hóa độ chúng
đệ tử xuất gia và tại gia khá nhiều, đồng thời
Hoà thượng làm chỗ nương tựa tinh thần cho hàng
phật tử xa gần nhất là nhân dân ở thôn Tri Thiện.
Hoà thượng có một
đặc tính là hay chu du thăm viếng nhiều nơi, từ
miền Nam miền Trung cho đến miền Bắc, từ thành
thị cho đến nông thôn, từ miền trung du cho đến
miền núi, Hoà thượng thăm viếng bất kể nơi đâu
từ ngôi Tổ đình to lớn cho đến ngôi chùa nhỏ bé
ở tận xa xôi, không phân biệt Sơn môn, hệ phái,
không so sánh vị đó là Hoà thượng, Thượng tọa
hay người thủ tự hương khói cho chùa, dù Tăng ni
hay cư sĩ phật tử, dù người đó là một vị cao
tăng hay vì thiếu duyên đã hoàn tục. Hoà thượng
thường tâm sự với các huynh đệ: Nếu đầy đủ nhân
duyên tôi muốn được đi nhiều nước để tìm hiểu
thêm về Phật giáo các nước khác.
IV. THỜI GIAN
VIÊN TỊCH
Hơn sáu mươi năm
hoằng pháp lợi sinh, tựa như một cỗ xe đến thời
kỳ hư hoại, và cũng là quy luật tất yếu của kiếp
người, sanh lão bệnh tử, Hòa thượng đã lâm bệnh,
mặc dù được Môn phái, cũng như môn đồ pháp quyến
và các y, bác sỹ bệnh viện Chợ Rẫy Sài Gòn, Bệnh
viện Đa khoa tỉnh Bình Định tận tình chăm sóc
chữa trị, nhưng tuổi cao sức yếu Hòa thượng đã
thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc
14 giờ 30 ngày 26 tháng Giêng năm Kỷ sửu (nhằm
ngày 20 tháng 02 năm 2009) tại Sắc tứ Tổ đình
Thiên Hòa, thôn Tri Thiện, xã Phước Quang, huyện
Tuy Phước, tỉnh Bình Định, Trụ thế 84 năm, 53 hạ
lạp.
Cuộc đời và sự
nghiệp của Hoà thượng có nhiều đóng góp thiết
thực cho Phật giáo Việt nam và Phật giáo Bình
Định nói riêng trong nhiều lĩnh vực, nhất là
phương diện kiến tạo cơ sở giáo dục cũng như
kiến thiết, trùng tu nhiều ngôi chùa làm nơi
sinh hoạt, tu học cho nhiều thế hệ Tăng ni, Phật
tử. Đặc biệt Hoà thượng rất linh hoạt trong ứng
đối và xây dựng, nhất là xây dựng chùa chiền và
các công trình cổ kính. Sinh tiền Hòa thượng
tính tình thẳn thắn, ít khi chịu quy lụy bất cứ
ai. Cuộc đời của Hoà thượng là tấm gương sáng là
bài học lớn cho hậu thế.
Suốt cuộc đời của
Hòa thượng từ lúc xuất gia tu học đến lúc viên
tịch, lúc nào cũng nghĩ đến Đạo pháp và Dân tộc,
nhất là luôn nghĩ đến việc đào tạo Tăng tài, Hòa
thượng đã cưu mang, giúp đỡ tạo mọi thuận duyên
cho nhiều Tăng ni trên đường tu học, hành đạo,
bằng khả năng của mình Hoà thượng đã có những
đóng góp thiết thực cho đạo pháp, luôn mong muốn
đạo pháp cửu trụ ở cõi ta bà.
Theo định luật vô
thường Hòa thượng đã xã bỏ báo thân nơi cõi Ta
bà, nhưng pháp thân của Hòa thượng mãi còn ở thế
gian này, trong đệ tử xuất gia và tại gia của
Hoà thượng và luôn tiếp nối hạnh nguyện lợi tha,
hoằng dương đạo pháp lợi lạc chúng sanh.
Nam Mô Lâm Tế
Chánh Tông Tứ Thập Nhị Thế Thành Viên Sáng Lập
Tu Viện Nguyên Thiều, Trùng Tu Tịnh Liên, Thiên
Hòa Tự, húy Thượng Thị hạ Quảng tự Hạnh Nhơn
hiệu Đỗng Quán Hoà thượng Tôn Sư chứng giám.
MÔN ĐỒ PHÁP QUYẾN
một góc Phật điện Chùa Thiên Hoà - Tuy Phước,
Bình Định (ảnh PGĐC chụp năm 2004)
|