TIỂU SỬ
HÒA THƯỢNG THÍCH
HUYỀN ẤN
TRÚ TRÌ SẮC TỨ TỔ
ĐÌNH BÍCH LIÊN
Thích Nguyên Khai
Hòa Thượng Thích
Huyền Ấn thế danh Nguyễn Đức Nhuận, húy Như Định,
tự Giải Phát, hiệu Huyền Ấn. Đời thứ Bốn mươi
mốt thuộc Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.
Ngài sinh vào
ngày 19 tháng 2 năm Tân Dậu (1921) tại thôn Háo
Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Thân phụ là ông cụ nho Nguyễn Tiểu Đào và bà
Phan Thị Chi, vốn dòng danh gia vọng tộc. Ngài
là con thứ trong một gia đình gồm bốn anh em.
Trong số ba anh em trai chỉ có Ngài là người
khác thường, lúc còn ấu thơ Ngài là một cậu bé
kháu khỉnh và vô cùng lanh lợi nhưng tánh tình
lại trầm tĩnh, ít nói, thích tìm vui riêng,
thường bẻ cây rạch đất, vẽ hoa văn, xếp đá thành
tháp…
Vốn sanh trưởng
trong một gia đình nho phong nề nếp, có truyền
thống tôn sùng Phật giáo. Ngài đã sớm cảm nhận
cảnh thế phù hoa, cuộc đời vô thường giả tạm.
Ngày 12 tháng 7 năm 1932, Ngài phát tâm xuất gia,
thọ giáo với Tổ Chơn Giám, chánh chủ bút Từ Bi
Âm là Tổ khai sơn Tổ Đình Bích Liên. Trong
khoảng thời gian tu học tại Tổ Đình Bích Liên
Ngài là người thông minh xuất chúng, cụ thể như
mỗi khi Hòa Thượng đi vắng Ngài thường đem sự
hiểu biết của mình truyền lại cho anh em đồng
học. Đồng thời đối với anh em cùng tu Ngài sống
rất mực hòa thuận.
Ngày 15 tháng 4
năm Canh Thìn (1940) khi tuổi vừa tròn 20, Ngài
được Hòa thượng Bổn sư cho đi thọ Tam đàn cụ túc
giới tại Trường kỳ Vĩnh Gia tỉnh Quảng Nam - Đà
Nẵng. Trong kỳ giới đàn này Ngài và
Ngài Huyền
Quang chiếm ngôi thủ, vĩ trong số hơn 400 giới
tử. Với thành tích xuất sắc ấy Ngài và
Ngài
Huyền Quang đã mang lại cho Tổ Đình Bích Liên
một vinh dự khá lớn. Ngoài việc thọ giáo với các
bậc minh sư như: Hòa Thượng Bổn sư, Hòa Thượng
Minh Tịnh, Hòa Thượng Liên Tôn, Hòa Thượng Bạch
Sa, Hòa Thượng Giác Phong… may mắn hơn nữa Ngài
còn được các bậc uyên bác nho học tận tình chỉ
giáo như: Thầy nghè Thanh Mai, quan cử Cự Đông
Lâm, thầy Hương lễ Khiết, cho nên trình độ kinh,
luật, luận cũng như nho văn của Ngài rất uyên
thâm.

chân dung HT Thích Huyền Ấn
Sau
Cách mạng tháng 8 năm 1945, trong cuộc kháng
chiến chống Pháp, hưởng ứng phong trào này, năm
1947 Ban trị sự Phật Giáo tỉnh Bình Định đã bầu
Ngài làm Tuần chúng huyện An Nhơn. Trên bước
đường công tác Giáo Hội, Ngài đã gặp rất nhiều
khó khăn. Tuy nhiên với đạo lực kiên cố và khả
năng vững vàng nên Ngài đã vượt qua mọi chướng
ngại. Đồng thời trong giai đoạn này Ngài có
duyên lành gặp được một người Trung Hoa tên là
Giang Bảo Hiếu truyền thụ cho môn y học cổ
truyền của Thiếu Lâm như: Trật đả cốt khoa, Trật
đả toàn khoa, Nghiệm phương tân biên, Điểm huyệt
bí quyết và nhiều sách y học vô cùng quý báu.
Nhờ trí thông minh kết hợp với vốn liếng Nho học
sẵn có cùng sự siêng năng nên không bao lâu Ngài
đã trở thành một lương y xuất sắc chữa về môn
trật đả.
Hơn 40 năm trên
bước đường hành đạo, Ngài đã thực hiện công hạnh
Y Phương Minh để thể nhập vào đời. Ngài đã cứu
chữa không biết bao nhiêu người bị tai nạn tưởng
chừng như trở thành phế nhân đều được trở lại
bình thường. Đơn cử như Hòa thượng Giác Ngộ bị
tại nạn đổ xe, anh Thích ở Gò Găng, Hòa Thượng
Thiện Nhơn, thầy Như Bửu và còn nhiều người khác
nữa. Nổi bật nhất là năm 1963 Ngài đã vào tận Đô
thành Sài Gòn để cứu chữa cho một số đồng bào
phật tử bị đàn áp trong thời kỳ pháp nạn. Ngoài
việc cứu chữa bệnh tật cho mọi người Ngài còn
gia tâm dịch giải nhiều sách y học bí truyền từ
Hán sang Việt văn. Tài năng chữa bệnh của Ngài
vang dội nhiều nơi bằng trực tiếp và gián tiếp,
Ngài đã được Hội y học cổ truyền Việt Nam nhiệt
liệt khen ngợi.
Với sự nghiệp
hoằng dương giáo pháp, Ngài đã có những đóng góp
cho Giáo hội và đạo pháp như: Năm 25 tuổi (1946)
đảm nhiệm trú trì Sắc tứ Tổ Đình Linh Sơn (Phù
Cát), năm 1956 lãnh chức Thủ tọa Tổ Đình Bích
Liên, cũng trong năm này thừa lệnh Hòa Thượng
Bổn sư Ngài làm lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng
chùa Đại Quang và chùa Đại Giác. Năm 1959, Ngài
tái thiết ngôi Tổ Đình Bích Liên. Năm 1960 Ngài
làm lễ đặt đá tái thiết chùa Bảo Liên, chùa Linh
Xuân, chùa Hương Quang đồng thời Ngài cũng đã
thực hiện nhiều công đức như tạo tượng, đúc
chuông.
Với trình độ uyên
thâm kinh điển, với tài nghệ y học hiến có ấy,
Ngài đã được các bậc trưởng lão mời phụ trách
giảng dạy nhiều nơi nhưng Ngài chỉ nhận dạy một
vài chỗ trong tỉnh như Tổ đình Thập Tháp, Tu
viện Nguyên Thiều, chùa Bình An và chùa Tâm Ấn.
Trong năm 1969,
Ngài Huyền Quang nhân danh Tổng
thư ký Viện Hoá Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất đã hai lần triệu Ngài vào Sài Gòn để
cộng tác trong công tác phật sự nhưng Ngài xin
từ khước.
Với tấm lòng bao
dung độ lượng vị tha Ngài luôn thổn thức về tiền
đồ, về tương lai thế hệ, Ngài đã không quản tuổi
già sức yếu đem sở học uyên thâm và những kinh
nghiệm quý báu dạy lại cho một số Tăng ni trẻ.
Trong số những Tăng ni trẻ này đã và đang nối
gót Ngài trên đường hành đạo độ sinh, nhằm góp
phần xây dựng cuộc đời ngày càng tươi đẹp.
Theo định luật vô
thường, Ngài an nhiên viên tịch vào lúc 17 giờ
ngày 26 tháng 10 năm Mậu Thìn (1988) tại Tổ đình
Minh Tịnh, thành phố Quy Nhơn, thế thọ 68 tuổi,
49 hạ lạp.
Ngài là một trong
những vị cao tăng của Phật giáo Bình Định được
tăng ni và tín đồ trọng vọng. Sự ra đi của Ngài
để lại cho tăng ni và phật tử niềm tiếc thương
vô hạn. Ngài là tấm gương sáng cho mai hậu.
Pháp
tử Thích Nguyên Khai
cung soạn
===================

Bộ ảnh một vài
ngôi chùa ở Bình Định

|