Phật Giáo & Cuộc Cách Mạng
Khoa Học
PHÚC LÂM
Cuộc cách mạng
khoa học phát khởi ở Tây phương từ thế kỷ thứ
16, phát triển mạnh trong thế kỷ thứ 17, mở đầu
bằng những tư tưởng và công trình khảo cứu của
Nicolaus Copernicus (1473-1543), Giordano Bruno
(1548-1600), Galileo Galilei (1564-1642),
Johannes Kepler (1571-1630), v.v.
Người ta gọi đó
là một cuộc cách mạng khoa học, bởi vì nhờ đó mà
Tây phương thoát ra khỏi cảnh tăm tối đã kéo dài
gần 1000 năm, từ năm 476 tới năm 1473. Thời gian
này thường được gọi là thời Trung Cổ và cũng còn
được gọi là thời kỳ tăm tối hay thời kỳ hắc ám
(Dark Ages). Chính trong khoảng thời gian này,
Tây phương đã bị thống trị bởi một ý thức hệ tôn
giáo độc tôn. Những giáo điều, tín lý Thiên Chúa
Giáo, tôn giáo của Tây phương, cộng với quyền
hành của các lãnh tụ tôn giáo ở địa vị nắm quyền,
hay liên kết với những chính quyền đương thời,
đã ngăn chặn sự phát triển khoa học và tự do tư
tưởng của con người. Mọi khám phá khoa học, mọi
tư tưởng trái ngược với Thánh Kinh đều bị lên án
là “lạc đạo" (heretics), phải diệt trừ. Do đó,
cũng chính trong khoảng thời gian này, Tây
phương phải chịu đựng 8 cuộc Thập Ác Chinh
(Crusades) và hàng trăm ngàn các vụ xử án dị
giáo (Inquisitions), với kết quả là nhiều triệu
người gồm già, trẻ, lớn, bé, trai, gái đã bỏ
mạng vì, hoặc bị tàn sát, có khi tập thể; hoặc
bị tra tấn bởi những dụng cụ tra tấn kinh khủng
nhất trong lịch sử nhân loại (hơn 40 dụng cụ tra
tấn dã man này hiện được trưng bầy trong 1 bảo
tàng viện nhỏ tên là Medieval Dungeon trên đường
Jefferson, khu Fisherman Warf, tại San
Francisco); hoặc bị treo cổ, hoặc bị đốt sống,
v.v..., tất cả chỉ vì họ không chấp nhận hay có
những tư tưởng ngược với Thánh Kinh. Thánh chiến
và tòa án xử dị giáo là những sản phẩm đặc thù
của Thiên Chúa Giáo ở Âu Châu, vì người ta không
thể tìm thấy những thứ này trong lịch sử của bất
cứ tôn giáo nào ở Đông phương, nhất là Phật Giáo.
Đó là những vết tỳ ố không sao tẩy xóa được
trong lịch sử loài người, dù Giáo hội Thiên Chúa
giáo đã làm hết sức để quảng cáo cái bộ mặt giả
nhân giả nghĩa ngụy trang dưới những chiêu bài
như nhân quyền, từ thiện, v.v.. với hy vọng làm
cho thế giới ngày nay quên đi cái lịch sử tàn
bạo của Giáo hội, đẫm máu và nước mắt của hàng
triệu người vô tội.
Cuộc
cách mạng khoa học đã gây nên hai ảnh hưởng to
lớn: Trong giới khoa học, đó là khởi điểm của
các tiến bộ khoa học hiện đại, vì từ đó các khoa
học gia đã thoát ra khỏi sự thống trị tư tưởng
của tôn giáo; trong xã hội đại chúng, đó là khởi
điểm của sự đạp đổ nền độc tài tôn giáo và những
giáo điều lỗi thời, vì những khám phá khoa học
mới đã có tác dụng mở mang dân trí, chấm dứt
1000 năm tăm tối, giải phóng con người khỏi sự
chuyên chế độc tài của giới giáo sĩ, điển hình
là cuộc cách mạng năm 1789 tại Pháp mà kết quả
là tước bỏ quyền hành của giới lãnh đạo Thiên
Chúa giáo trong quần chúng, hay nói theo John E.
Remsburg trong cuốn False Claims: “tước khỏi
những bàn tay đẫm máu của Giáo hội Thiên Chúa
giáo những thanh gươm để giết người, và những bó
củi để thiêu sống người”. Để có một nhận định
khách quan và trung thực về vấn đề trên, có lẽ
chúng ta nên duyệt sơ sự diễn tiến của cuộc cách
mạng khoa học, một cuộc cách mạng vô tiền khoáng
hậu trong lịch sử Tây phương, được viết trong
các sách giáo khoa mà bất cứ sinh viên đại học
nào học về khoa học cũng phải biết.
Trong thời
Trung Cổ, tuy cũng có những tiến bộ về khoa học
và toán học, nhưng về nhân chủng học và vũ trụ
học, tất cả đều dựa trên Cựu Ước trong Thánh
Kinh, một cuốn sách viết bởi nhiều môn phái
trong nhiều thế kỷ. Ngoài ra, Tân Ước cũng được
viết bởi nhiều người trong nhiều thế kỷ sau khi
Giê-su bị đóng đinh trên cái giá gỗ hình chữ
thập. Tuy ngày nay, nhiều học giả nghiên cứu
Thánh Kinh, và ngay cả những tín đồ Thiên Chúa
giáo tiến bộ, có đầu óc suy luận và kiến thức về
khoa học, đều công nhận là cuốn Thánh Kinh chứa
đầy những huyền thoại góp nhặt từ các huyền
thoại dân gian, đầy những sai lầm và mâu thuẫn,
những tư tưởng dã man của thời bán khai với
những cảnh giết chóc, tàn sát tập thể, loạn
luân, v.v. và hoàn toàn trái nghịch với những
khám phá mới nhất đã được kiểm chứng của khoa
học, nhưng vào thời Trung Cổ, cuốn Thánh Kinh đã
được giới lãnh đạo Thiên Chúa giáo coi như chính
là những lời của Thần của họ, do đó không thể
sai lầm. Theo sự đoan quyết của các nhà thần học
Thiên Chúa giáo, dựa trên Thánh Kinh, thì thế
giới mà chúng ta đang sống là thế giới duy nhất
do một vị thần mà họ gọi là Thượng Đế tạo ra, và
trái đất là trung tâm của thế giới này. Mặt trời
và các hành tinh khác đều do các thiên thần xoay
vần xung quanh trái đất. Trên trái đất là một
vòm trời cứng để giữ nước ở phía trên, có những
cánh cửa mở để nước rơi xuống thành mưa theo
hứng của Thượng Đế. Những sao trên trời là những
ngọn đèn mà tối tối Thượng Đế sai các thiên thần
mang ra treo. Vì đó là những lời của Thượng
Đế trong Thánh Kinh nên bất cứ quan niệm nào
không phù hợp với Thánh kinh đều bị coi là "tà
thuyết" và, theo Thánh Philastre, đương nhiên "sai
lầm đối với tín ngưỡng Thiên Chúa giáo" (Any
other view, St. Philastrius declared "false to
the Catholic faith" ("Science and Theology" by
Andrew Dickson White).
Nhưng vào đầu thế
kỷ 16, Nicolaus Copernicus, một nhà vũ trụ học
người Ba Lan, đã đưa ra một khám phá mới: đó là,
không phải là mặt trời và các hành tinh quay
xung quanh trái đất, mà chính là trái đất và các
hành tinh quay xung quanh mặt trời. Copernicus
không dám phổ biến khám phá này như là một sự
thực khoa học. Nhưng cuối cùng ông cũng xuất bản
một cuốn sách: "Chuyển động quay của các thiên
thể" (Revolutions of the Heavenly Bodies) trong
đó có ghi những khám phá của ông. Để tránh cho
Copernius những hậu quả khó có thể lường trước
được, trong phần đề Tựa cuốn sách, bạn của
Copernicus là Osiander đã khéo léo trình bày
công trình khảo cứu của Copernicus như là một
giả thuyết (hypothesis) hay là một nghịch lý
(paradox). Nhưng, khi cuốn sách vừa được xuất
bản thì Copernicus qua đời, vào năm 1543. Do đó
Tòa Thánh cũng làm ngơ và cho phép các nhà thần
học thỉnh thoảng được bàn tới "giả thuyết" của
Copernicus. Sự chống đối trong giới khoa học tuy
có nhưng chỉ ngấm ngầm, không ai dám lên tiếng
coi thuyết của Copernicus là một chân lý, vì sợ
bị kết án là lạc đạo, tra tấn và mang ra xử tại
tòa án xử dị giáo.
Tuy nhiên, có một
triết gia thuộc loại "uy vũ bất năng khuất", đó
là Giordano Bruno, một linh mục dòng Dominique
người Ý. Bruno không những đồng ý với Copernicus
mà còn táo bạo hơn, đưa ra quan niệm là ngoài
thế giới chúng ta đang sống có thể còn có nhiều
thế giới tương tự khác nữa. Điều này trái với
lời của Thượng Đế trong Thánh Kinh: Trái đất là
trung tâm của thế giới duy nhất mà chúng ta đang
sống. Do đó, Bruno bị bắt giam trong 6 năm. Sau
cùng, vì từ chối không chịu chấp nhận những điều
trái với niềm tin bắt nguồn từ những kết quả
nghiên cứu khoa học vững chắc mà ông cho là đúng
dù rằng nếu chấp nhận là sai ông sẽ được tự do,
ông bị đưa ra tòa án xử dị giáo, kết án, dứt
phép thông công và bị tuyên án tử hình bằng cách
thiêu sống. Ông bị các Linh Mục, những người có
lòng thương yêu kẻ thù (theo như lời dạy của
Giê-su trong Thánh Kinh. TCN), dẫn từ nhà tù ra
nơi hành hình. Ông bị cột vào một cọc xung quanh
có chất củi. Rồi các Linh Mục, đệ tử của Chúa
Ki-Tô, châm lửa và thiêu sống vị Thánh tử đạo vĩ
đại nhất, hoàn hảo nhất này. (He believed in
a plurality of worlds, in the rotation of this,
in the heliocentric theory. For these crimes,
and for these alone, he was imprisoned for six
years. He was offered his liberty, if he would
recant. Bruno refused to stain his soul by
denying what he believed to be true. He was
tried, condemned, excommunicated and sentenced
to be burned. He was taken from his cell by the
priests, by those who loved their enemies, led
to the place of execution.He was chained to a
stake and about his body the wood was piled.
Then priests, followers of Christ, lighted the
fagots and flames consumed the greatest, the
most perfect martyr, that ever suffered death.
("Ingersoll The Magnificient" By Joseph Lewis)).
Năm 1616, kính
thiên văn đầu tiên của Galilei đã làm cho vòm
trời trong Thánh Kinh rớt ra từng mảng. Công
cuộc khảo cứu của Galileo Galilei dựa trên sự
quan sát thiên văn qua hàng loạt những kính
thiên văn ngày càng tân kỳ hơn, đã thực chứng
quan niệm của Bruno và đồng thời khẳng định
thuyết của Copernicus như là một chân lý khoa
học. Chúng ta đã biết, năm 1633, dưới triều Giáo
Hoàng Urban VIII, tòa án xử dị giáo đã buộc
Galilei phải sửa đổi khám phá khoa học của ông
cho phù hợp với Thánh Kinh, nghĩa là mặt trời
quay xung quanh trái đất, và dù vậy ông ta vẫn
bị biệt giam tại nhà cho đến khi chết vào năm
1642. Chuyện được kể như sau:
"Năm
1633, khi Galileo, dựa trên những dữ kiện khoa
học không thể phủ nhận, đoan quyết trong một
cuốn sách khảo cứu thiên văn của ông rằng: không
phải là mặt trời quay xung quanh trái đất mà
chính là trái đất quay xung quanh mặt trời, thì
ông bị kéo ra trước tòa án dị giáo của giáo
hoàng Urban VIII, vốn là bạn của Galileo. Khi đó
ông đã già, gần chết. Giáo hoàng phán: "Trước
khi chết, ngươi hãy sửa lại điều trên vì nó
ngược lại với Thánh kinh. Bất cứ điều nào ngược
với Thánh kinh đều đương nhiên sai lầm, vì thánh
kinh là lời của Thượng Đế”. Galileo là một khoa
học gia vĩ đại, dù đã 80 tuổi, sắp chết, nhưng
vẫn còn đầy đủ óc khôi hài tuyệt vời. Ông nói:
"Không thành vấn đề, tôi sẽ sửa lại lời tôi
viết, tôi sẽ viết lại trong sách của tôi đúng
như lời Thượng Đế đã viết trong Thánh kinh -
nghĩa là mặt trời quay xung quanh trái đất.
Nhưng có một điều tôi cần trình ngài rõ: cả trái
đất lẫn mặt trời đều không đọc sách của tôi. Và
sự thực thì, trái đất sẽ tiếp tục quay xung
quanh mặt trời. Nếu ngài nhất định muốn biết tại
sao thì tôi có đầy đủ bằng chứng. Tôi đã dùng cả
đời tôi để nghiên cứu vấn đề này, và những người
có đầu óc khoa học đều tuyệt đối đồng ý với sự
khám phá của tôi. Trước sau gì rồi ngài cũng
phải đồng ý vì không ai có thể chống lại sự thực
lâu dài”. (Galileo was a great scientist
who, even at the age of eighty, when he was
dying, had such a beautiful sense of humor. He
said: There is no problem. I will change it; I
will write in my book exactly what God has
written in the bible - that the sun goes around
the earth. But one thing I must make clear to
you: neither the sun reads my book nor the earth
reads my book. As far as reality is concerned,
the earth will continue going around the sun.
And why should you insist? Because I have every
proof; I have devoted my whole life to the
search, and all those who have a scientific mind
are in absolute agreement with me. Sooner or
later you will have to agree because one cannot
remain against truth for long. "Priests and
Politicians", Second revised edition, Cologne,
West Germany, p.27)
Tuy vậy Galileo
vẫn bị buộc phải sửa đổi sự thực khoa học ông đã
viết trong sách, bị kết án là "lạc đạo" và bị
biệt giam tại nhà cho đến khi ông chết, năm
1642. Nhưng lời tiên đoán của ông đã thành sự
thực, tuy hơi chậm. 359 năm sau, ngày 29 tháng
10 năm 1992, giáo hoàng John Paul II, tuyên bố
vụ án Galileo là một sai lầm và phục hồi danh dự
cho Galileo, sau khi một ủy ban gồm những bộ óc
thượng thặng của Toà Thánh La Mã nghiên cứu
trong 13 năm về vấn đề Galileo. Trong dòng thời
gian vô tận, 359 năm cũng chẳng phải là lâu. Và,
13 năm dùng để nghiên cứu một vấn đề mà đối với
toàn thế giới đã rõ như ban ngày từ mấy trăm năm
nay phải chăng phản ánh thực chất của những bộ
óc thượng thặng đang ngự trị trong Tòa Thánh
Vatican?
Ngoài ra, cùng
thời với Galilei còn có nhà thiên văn và toán
học người Đức là Johannes Kepler. Không những
Kepler đồng ý với Copernicus và Galilei mà ông
còn đưa ra 3 định luật về cơ học các thiên thể
(celestial mechanics) để mô tả một cách vô cùng
chính xác sự chuyển động của các hành tinh,
trong đó có trái đất, xung quanh mặt trời. Đó là:
1. Quỹ đạo của
các hành tinh quay xung quanh mặt trời là hình
ellip (bầu dục) thay vì hình tròn.
2. Các hành tinh
quét những khoảng không gian bằng nhau trong
những khoảng thời gian bằng nhau. (Nghĩa là tùy
theo vị trí của hành tinh trên quỹ đạo ellip,
vận tốc chuyển động của hành tinh khác nhau).
3. Bình phương
chu kỳ quay T (thời gian quay được một vòng quỹ
đạo) thì tỷ lệ thuận với lập phương khoảng cách
trung bình R giữa hành tinh và mặt trời. (T^2 tỷ
lệ thuận với R^3).
Kepler cũng bị
Tòa Thánh chỉ trích, hành hung và bắt bớ giam
cầm trong nhiều năm, nhưng các khoa học gia khác
như Descartes, Fermat, Newton, v.v. đều ủng hộ
ông cùng góp phần phát minh ra những khám phá
mới. Rút
cục, giáo hội Thiên Chúa giáo chỉ còn biết đưa
ra sắc lệnh lên án các kết quả khảo cứu của
Copernicus và Galilei là sai lầm, thí dụ như:
"Điểm thứ nhất, nói rằng mặt trời là trung tâm
và không quay xung quanh trái đất, là điên rồ,
vô nghĩa, sai lầm về thần học, và là tà thuyết
vì trái ngược hẳn với Thánh Kinh; và điểm thứ
hai, nói rằng trái đất không phải là trung tâm
mà lại quay xung quanh mặt trời, là vô nghĩa,
sai lầm về triết lý, và ít nhất từ quan điểm
thần học, đối nghịch với chân tín ngưỡng". (The
first proposition, that the sun is the centre
and does not revolve about the earth, is
foolish, absurd, false in theology, and
heretical, because expressely contrary to the
Holy Scriptures; and the second proposition,
that the earth is not the centre but revolves
about the sun, is absurd, false in philosophy,
and from a theological point of view at least,
opposed to the true faith. ("The Scientific
Revolution" Edited by Vern L. Bullough.) Và cấm
các giáo sĩ và con chiên đọc sách của Copernicus
và Galilei.
Lệnh cấm này kéo
dài suốt 278 năm cho tới năm 1821 mới được Giáo
Hoàng Pius VII thu hồi. Nhưng cấm thì cứ cấm,
giới trí thức cùng người dân đọc thì vẫn cứ đọc.
Dần dần quyền hành tôn giáo ở Âu Châu không còn
địa vị độc tôn và giữ quyền sinh sát như trước
nữa, vì cuộc cách mạng khoa học và các phát
triển khoa học về sau trong mọi ngành, nhất là
về nhân chủng học và di truyền học, và phương
pháp định tuổi của vật chất bằng phóng xạ đồng
vị của Carbon và của vài nguyên tố khác đã làm
sụp đổ tận gốc rễ thuyết sáng tạo trong Thánh
Kinh, căn bản tín ngưỡng của Thiên Chúa giáo. Đó
là ảnh hưởng trực tiếp to lớn của cuộc cách mạng
khoa học trên xã hội Tây phương. Ngày nay, những
người còn tin ở thuyết sáng tạo là do lòng tin
lập thành trong tôn giáo chứ không phải lòng tin
qua suy lý khoa học.
Nhiều trí thức
khoa học hiện đại đã đặt vấn đề: trong một bối
cảnh lịch sử cách mạng khoa học như trên, thái
độ của Phật Giáo sẽ ra sao? Cũng có vài trí thức
Tây phương cho rằng có thể thái độ của Phật Giáo
cũng tương tự như của Thiên Chúa Giáo (Some
Western writers on religion seem to have assumed
that this was so ("Buddhism and the Scientific
Revolution" By K. N. Jayatilleke)), nhưng những
người hiểu biết chút ít về Phật Giáo thì lại bác
bỏ hoàn toàn luận cứ này. Thật vậy, giáo lý căn
bản của Phật giáo là chứng nghiệm bản thân, cho
nên rất phù hợp với tinh thần khoa học. Hơn nữa,
Phật Giáo không có Thánh Kinh, không có bí tích
bắt buộc phật tử phải tin, không có thần quyền,
không có giáo điều khô cứng, cho nên chúng ta có
thể đoan chắc rằng Phật giáo sẽ rất hòa hợp với
những sáng tạo trong khoa học đừng nói đến
chuyện đối kháng hay tìm cách ngăn chặn, diệt
trừ.
Về phương diện
thuyết lý, quan niệm về vũ trụ của Bruno rất phù
hợp với quan niệm của Phật Giáo cách đây đã hơn 2500
năm về trước, rằng ngoài thế giới chúng ta đang
sống còn có hằng hà sa số thế giới khác. Nếu
Bruno sống trong một xứ Phật Giáo thì Bruno sẽ
được tôn vinh thay vì đưa lên giàn hỏa để thiêu
sống. Quan niệm tương đối trong các Kinh Phật
không có gì trái nghịch với quan niệm của
Copernicus và Galilei về các chuyển động của
trái đất và các hành tinh xung quanh mặt trời.
Thật vậy, theo Phật Giáo thì mọi sự vật trên thế
gian đều chỉ là tương đối. Điều này có nghĩa là
hình sắc, tính chất của mọi sự vật luôn luôn
biến đổi tùy theo cảnh giới trong đó sự vật thể
hiện. Nói một cách giản dị thì tương đối có
nghĩa là "thấy vậy mà không phải vậy", bởi lẽ
tùy theo quan điểm và vị thế quan sát của mỗi
người, danh từ khoa học gọi là "hệ thống quy
chiếu", hình sắc và tính chất của một vật có thể
khác nhau. Cho nên, một Thiền Sư hay một phật tử
có thể hiểu rất rõ rằng trong Thái Dương Hệ thì
trái đất quay xung quanh mặt trời, nhưng hàng
ngày thì vẫn thấy mặt trời "mọc" ở phương Đông
và "lặn" ở phương Tây. Hai điều này không có gì
là trái ngược nhau, vì một thuộc Chân Đế và một
thuộc Tục Đế.
Cuộc
cách mạng khoa học đã mở đầu cho một kỷ nguyên
mới cho nền khoa học tân tiến hiện đại, và cho
tới ngày nay khoa học đã đạt được nhiều thành
quả ngoạn mục trong mọi ngành. Song song với sự
phát triển của khoa học, càng ngày các khoa học
gia càng nhận ra sự tương đồng giữa những quan
niệm xa xưa của Phật Giáo và những khám phá mới
của Khoa học, và trong nhiều vấn đề tư tưởng
Phật Giáo đã đi trước khoa học khá xa. Không
những vậy, trong nhiều trường hợp, các khoa học
gia đã phải mượn những tư tưởng trong Phật Giáo
để giải thích những hiện tượng khoa học. Lẽ dĩ
nhiên, trong một bài viết ngắn ngủi tôi không
thể nào kể ra hết những sự tương đồng, dù chỉ ở
ngoài mặt, giữa khoa học và Phật Giáo. Sau đây
tôi chỉ xin nêu ra vài thí dụ quen thuộc.
Sự phát minh ra
kính hiển vi rồi kính hiển vi điện tử đã giúp
con người nhìn thấy những vật nhỏ li ti như các
vi khuẩn mà mắt thường không thể nhìn thấy được.
Nhưng ngày xưa, Đức Phật đã dạy các đệ tử mỗi
khi uống nước hãy niệm chú để phổ độ cho các
chúng sinh nhỏ nhoi ở trong nước và ngài còn
khẳng định trong mỗi giọt nước có tới 84000 vi
sinh vật. Chúng ta nên hiểu con số trên, tuy có
nhiều ý nghĩa, nhưng trong trường hợp này tượng
trưng cho một con số lớn chứ không phải là một
con số chính xác. Điều Đức Phật dạy như trên
ngày nay chúng ta có thể kiểm chứng bằng kính
hiển vi. Đọc Kinh Phật càng ngày tôi càng thấy
nhiều điều kỳ lạ. Ở một thời chưa có những dụng
cụ khoa học tinh vi, nền khoa học Tây phương còn
phôi thai, mà Đức Phật đã biết những điều mà hơn
2000 năm sau khoa học tiến bộ Tây phương mới
kiểm chứng được, tôi nghĩ không có cách giải
thích nào khác ngoài sự tin tưởng rằng Đức Phật
đã biết rõ cơ cấu huyền bí của vũ trụ. Thí dụ
sau đây sẽ chứng tỏ luận cứ trên không phải là
hoang đường.
Chúng ta đã biết,
về thời gian thì Phật giáo có quan niệm "vô thỉ,
vô chung", không có bắt đầu và cũng không có tận
cùng. Và khi được hỏi là vũ trụ hữu hạn hay vô
hạn, hay vừa hữu hạn vừa vô hạn, hay vừa không
hữu hạn vừa không vô hạn, thì Đức Phật giữ yên
lặng, không trả lời. Có người diễn giảng là: sự
hiểu biết về những vấn đề này không ích lợi gì
cho sự tu tập trong Phật giáo nên Đức Phật không
trả lời để cho hành giả khỏi vướng mắc vào những
sự viễn vông mà lo vấn đề tu tập, thực tế hơn.
Cũng có người giảng giải là Đức Phật giữ yên
lặng để hiển dương tính vô chấp trong Phật Giáo.
Nhưng nếu chúng ta tìm hiểu ít nhiều về những
tiến bộ của khoa học hiện đại thì có thể chúng
ta sẽ thấy rằng Đức Phật không trả lời vì Người
đã nắm vững cơ cấu huyền bí của vũ trụ, và thái
độ của Người cách đây hơn 2500 năm hoàn toàn phù
hợp với những khám phá hiện đại nhất của khoa
học.
Thật vậy, các
khoa học gia, tuy chưa đạt tới kết luận chung
cùng về nguồn gốc loài người và nguồn gốc vũ trụ,
nhưng tất cả đều đồng ý là thuyết sáng tạo có
rất nhiều mâu thuẫn, vô lý, và phản khoa học.
Thí dụ như ánh sáng là những sóng điện từ và màu
sắc của ánh sáng tùy thuộc tần số dao
động của
ánh sáng. Ta có thể phân một loại ánh sáng, thí
dụ như ánh sáng trắng, ra làm nhiều ánh sáng màu
sắc khác nhau qua một chiếc lăng kính chẳng hạn,
nhưng ánh sáng không phải là một "vật" mà ta có
thể chia làm 2 phần, sáng và tối, như Thượng Đế
đã làm trong ngày thứ nhất của thuyết sáng tạo.
Tối là vì không có ánh sáng chứ tối không phải
là một phần của ánh sáng. Thí dụ thứ hai là
khoa di truyền học ngày nay đã chứng tỏ rằng các
giống người khác nhau là do những đột biến di
truyền trong những khoảng thời gian rất dài,
không thể quan sát được trong một vài đời người.
Trong hiện tại, không có một cặp vợ chồng người
Việt Nam nào có thể sinh ra một đứa con Phi Châu
đen ngòm tuy thuyết Tiến Hóa không bác bỏ điều
rất có thể trong vài trăm ngàn năm sau, giống
người Việt Nam sẽ dần dần đổi khác. Thuyết Tiến
Hóa cũng đã bác bỏ huyền thoại Adam và Eva là tổ
tông loài người, v.v. Charles Darwin đã đưa
ra thuyết tiến hóa nhưng cho tới nay vẫn chưa
hoàn toàn thuyết phục tất cả mọi người. Chúng ta
đã biết, Phật giáo không chấp nhận thuyết sáng
tạo và khoa học cũng vậy và còn đang trên đường
tìm ra chân lý. Hi vọng trong tương lai khoa học
sẽ đưa ra một thuyết phù hợp với quan niệm
nghiệp chuyển vô thỉ vô chung của Phật giáo.
Sau đây tôi xin
trình bày hết sức sơ lược quan niệm về thời gian
và vũ trụ của khoa học hiện đại. Chúng ta sẽ
thấy những quan niệm này cũng là những quan niệm
xa xưa của Phật giáo. Vấn đề khá phức tạp nhưng
phần lớn những điều tôi viết sau đây đều có thể
chứng minh bằng toán học.
Thuyết tương đối
suy rộng (general theory of relativity) của
Albert Einstein đã vô cùng thành công trong việc
áp dụng vào việc tìm hiểu vũ trụ. Trong những
thập niên 1960 và 1970, các khoa học gia đã làm
nhiều thí nghiệm để kiểm chứng những sự tiên
đoán dựa vào thuyết này, và trong mọi trường hợp,
thuyết tương đối suy rộng đã được công nhận là
đúng. Thuyết tương đối, tuy rất thành công trong
việc tiên đoán các hiện tượng ở cấp thô đại,
nhưng lại gặp nhiều khó khăn chưa giải quyết
được khi áp dụng thuyết này vào những trường hợp
ở cấp cực vi, tiềm nguyên tử (subatomic), cấp
vật chất thuộc lãnh vực khảo sát của cơ học
nguyên lượng (quantum mechanics). Tuy nhiên,
thuyết tương đối của Einstein đã cho chúng ta
một hình ảnh chính xác về vũ trụ: "vũ trụ có thể
có 3 cấu hình, hoặc mở, hoặc đóng, hoặc phẳng
dẹt." (Einstein's theory tell us that there are
three possible configurations that the universe
might have. It is either open, or closed, or
flat. ("The Edges of Science" By Richard
Morris)). Nhưng dù theo cấu hình nào thì vũ trụ
cũng phát khởi từ một sự bùng nổ lớn (big bang).
Thuyết "big bang" ngày nay đã được mọi người
chấp nhận kể cả Thiên Chúa giáo như tôi sẽ trình
bày trong một đoạn sau.
Thuyết "big bang"
bắt nguồn từ sự khám phá ra hiện tượng "vũ trụ
nở rộng" (expansion of the universe) của Edwin
Hubble vào năm 1929. Hubble quan sát được rằng,
các thiên hà (galaxy) cứ di chuyển mỗi ngày một
xa trái đất hơn, và thiên hà nào càng ở xa trái
đất thì di chuyển càng nhanh, và khoảng cách
giữa các thiên hà cũng càng ngày càng xa dần.
Điều này chứng tỏ vũ trụ không cố định mà càng
ngày càng nở rộng. Tính ngược thời gian thì tại
một thời điểm nào đó, cách đây khoảng 15 tỉ năm,
vũ trụ chỉ là một dị điểm (singularity) vô cùng
nóng và vô cùng đặc theo nghĩa dị điểm này có 1
chất lượng vô tận (infinite mass). Dị điểm này
bùng nổ và biến đổi dần dần thành vũ trụ hiện
nay. Sự bùng nổ lớn này (big bang) được coi như
là nguồn gốc của vũ trụ, và vũ trụ có cấu hình
nào, đóng, hay mở, hay phẳng dẹt, là do số lượng
vật chất có trong vũ trụ. Không đi vào chi tiết,
vũ trụ đóng là một vũ trụ hữu hạn trong đó không
gian tự khép lại trên chính nó nhưng không có
biên giới. Khuôn mẫu này khá trừu tượng nhưng có
thể mô tả được bằng toán học và người ta có thể
tìm hiểu tính chất của nó một cách khá chi tiết.
Lượng vật chất trong vũ trụ đóng này sẽ làm cho
vũ trụ ngưng nở rộng trong tương lai và vũ trụ
lại co lại dần dần thành 1 dị điểm như lúc đầu,
danh từ khoa học gọi là sự "tới hạn lớn" (big
crunch). Vũ trụ mở thì vô hạn (infinite), luôn
luôn nở rộng vì lượng vật chất trong đó không đủ
để làm ngưng sự nở rộng này. Trọng trường có
thể làm cho sự nở rộng càng ngày càng chậm nhưng
không bao giờ ngưng. Vũ trụ phẳng dẹt là vũ trụ
trong đó lượng vật chất đã tới hạn, nghĩa là vừa
đủ để làm cho sự nở rộng hầu như ngưng lại mà
không phải là ngưng.
Như trên đã nói,
thuyết "big bang" đã được hầu như mọi người đều
chấp nhận kể cả Thiên Chúa giáo La Mã. Thật vậy,
Stephen Hawking, một vật lý gia nổi tiếng nhất
hiện nay về những thuyết vũ trụ của ông đã kể
như sau: "Năm
1981, khi dự một cuộc hội thảo về vũ trụ học do
các Linh mục dòng Tên tổ chức ở Vatican, tôi lại
quan tâm tới vấn đề nguồn gốc và số phận của vũ
trụ. Giáo hội Gia Tô đã phạm phải một sai lầm
nghiêm trọng đối với Galileo khi đặt luật lệ tôn
giáo trên một vấn đề khoa học, rằng mặt trời
quay xung quanh trái đất. Nay, nhiều thế kỷ sau,
giáo hội quyết định mời một số chuyên gia để cố
vấn cho họ về vũ trụ học. Cuối cuộc hội thảo,
các tham dự viên được hội kiến với Giáo hoàng.
Ông ấy bảo chúng tôi rằng có thể nghiên cứu về
sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ bùng lớn, nhưng
không nên tìm hiểu về chính sự bùng nổ lớn vì đó
là lúc sáng tạo và đó là sáng tạo của Thượng Đế.
Tôi rất mừng vì ông ta không biết đến đề tài mà
tôi mới trình bày trong cuộc hội thảo - có thể
là miền không - thời gian hữu định nhưng không
có biên giới, nghĩa là không có bắt đầu, không
có lúc Sáng Tạo." (In 1981 my interest
in questions about the origin and fate of the
universe was reawakened when I attended a
conference on cosmology organized vy the Jesuits
in the Vatican. The Catholic Church had made a
bad mistake with Galileo when it tried to lay
down the law on a question of science, declaring
that the sun went around the earth. Now,
centuries later, it had decided to invite a
number of experts to advise it on cosmology. At
the end of the conference the participants were
granted an audience with the pope. He told us
that it was all right to study the evolution of
the universe after the big bang, but we should
not inquire into the big bang itself because
that was the moment of Creation and therefore
the work of God. I was glad then that he did not
know the subject of the talk I had just given at
the conference - the possibility that space-time
was finite but had no boundary, which means that
it had no beginning, no moment of Creation. ("A
Brief History of Time" By Stephen Hawking, p.
116)).
Theo Stephen
Hawking thì "điều kiện biên của vũ trụ là không
có biên giới". Vũ trụ có tính cách hoàn toàn tự
có sẵn và không bị ảnh hưởng của bất cứ gì ở
ngoài nó. Vũ trụ chẳng sanh chẳng diệt. Nó là
như vậy. ("The boundary condition of the
universe is that it has no boundary. "The
universe would be completely self-contained and
not affected by anything outside itself. It
would neither be created nor destroyed. It
would just be. (Ibid., p. 136)).
Một câu hỏi liên
quan đến quan niệm về thời gian là: Trước sự
bùng nổ lớn thì thời gian ra sao? Theo khoa học
thì khi vũ trụ là một dị điểm thì tất cả những
định luật vật lý, kể cả quan niệm về thời gian
đều không áp dụng
được. Vì khi đó thời gian không còn tính chất
của thời gian nữa, ít nhất là theo nghĩa chúng
ta thường hiểu về thời gian. Cho nên, không thể
nói là vũ trụ bắt đầu từ đâu, sanh ra từ đâu.
Thuyết này đã được kiểm chứng bằng toán học và
hoàn toàn phù hợp với những sự kiện trong khuôn
mẫu nở rộng của vũ trụ (inflationary paradigm).
Theo Hawking, nếu vũ trụ chẳng sanh thì tất
nhiên nó cũng chẳng diệt, vì thời gian cũng trở
thành vô biên (no boundary in time). Nếu thuyết
của Hawking đúng thì vũ trụ có cấu hình đóng như
đã mô tả ở trên, nghĩa là tới một thời điểm nào
đó thì vũ trụ ngưng dãn thêm và bắt đầu co dần
trở lại thành 1 dị điểm. Vậy sau đó thì sao? Câu
hỏi này không thích hợp vì không có gì có
thể gọi là "sau đó". "Sau đó" nằm trong phạm trù
của quan niệm về một dòng thời gian, nhưng thời
gian lại mất thời gian tính khi vũ trụ là một dị
điểm, cho nên những thắc mắc về "trước big bang"
và "sau big crunch" là những thắc mắc vô nghĩa.
Chúng ta thấy
rằng, những thuyết mới nhất về vũ trụ trong khoa
học hiện đại rất phù hợp với quan niệm "vô thỉ
vô chung", "vô thường" của Phật Giáo, và thái độ
giữ yên lặng của đức Phật trước những câu hỏi về
siêu hình đã phản ánh sự kiện nắm vững cơ cấu
huyền bí của vũ trụ của Người. Cho nên, chúng ta
có thể nói, đối với cuộc cách mạng khoa học,
Phật giáo không có gì phải chống đối, vì thật ra
cuộc cách mạng khoa học đã nằm trong các tư
tưởng Phật giáo rồi. Kinh điển Phật giáo là một
rừng tư tưởng vĩ đại, rất phù hợp với tính chất
thực tế của khoa học, tự hợp (self-consistent),
tự giải (self-explained), hoàn toàn không có
chút nào huyền hoặc, viễn vông. Tâm Kinh viết
rằng: "Không tướng của mọi Pháp chẳng sanh chẳng
diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng tăng chẳng
giảm" chẳng phải đã nói lên tính chất không phụ
thuộc vào thời gian, không gian, mà còn đi xa
hơn, không phụ thuộc vào cả tính chất vật lý
nữa? Các Thiền sư thường nói: thực chứng được
Tính Không của mọi Pháp là thực chứng được Phật
Tánh. Nay chúng ta đã hiểu tại sao một số
luận gia đã so sánh Phật Tánh, Chân Như với Vũ
Trụ vì ngoài đặc tính chẳng sanh chẳng diệt,
chẳng tăng chẳng giảm (lượng vật chất trong vũ
trụ luôn luôn như vậy bất kể vũ trụ co hay dãn),
ngày nay, một số khoa học gia còn quan niệm phải
nhìn vũ trụ một cách toàn ký (holographic
view of the universe). Cách nhìn toàn ký vũ trụ
là nội dung của Kinh Hoa Nghiêm, hiển nhiên
không thuộc phạm vi đề tài của bài viết này,
nhưng tôi sẽ trình bày cách nhìn này trong một
bài khác.
Trích từ
sách PHẬT GIÁO VÀ KHOA
HỌC của PHÚC
LÂM
|