Con Mắt Còn Lại…
Thích Giác Tâm
Thi sĩ Bùi Giáng
xuất khẩu thành thơ, ông sống trong cõi giới
riêng ông, trong hư tưởng mông mênh lạ kỳ, nên
khi lời thơ ông thốt ra, với chúng ta có khi
rất bỡ ngỡ xa lạ, khó hiểu. Ta cố hiểu, rán hiểu
về ông, tuy vậy cũng chưa chắc đúng ý ông. Thôi
thì cứ mỗi người một cách mà cảm nhận, mà hiểu.
Thơ hai câu của ông rất nhiều, tôi chỉ nhớ được
vài câu thôi:
“…Em
ơi em đẹp vô cùng,
vì
em có cái lạ lùng bên trong…
...Đi
tu thứ nhất ở chùa,
Thứ
nhì ở tận cuối mùa lang thang...
...Dược Sư thơ mộng vô vàn,
Sầu
lên vút tận mây ngàn tần thân...”
“Còn
hai con mắt khóc người một con” chính câu thơ
này mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có cảm hứng sáng
tác bài nhạc “con mắt còn lại”. Trịnh Công Sơn,
Bùi Giáng, Văn Cao, Nguyễn Tuân là những thiên
tài Việt Nam, rất hạp nhau và chơi với nhau, bất
chấp tuổi tác chênh lệch. Có những ý tưởng gặp
nhau, thầm hiểu nhau, vô ngôn thinh lặng vẫn
hiểu. Có những điều Trịnh Công Sơn định nói bằng
ca từ thì Bùi Giáng đã nói trước bằng thi ca. Ta
có thể nói bài nhạc “còn hai con mắt” Trịnh Công
Sơn và Bùi Giáng cùng sáng tác vẫn được. Ý vô
cùng quan trọng, không có tác ý thì thân và khẩu
đâu có hành động, Phật dạy như vậy mà!
Bài
con mắt còn lại, gồm 24 câu, chia làm ba khổ.
Khổ
một
Còn
hai con mắt khóc người một con
Còn
hai con mắt một con khóc người
Con
mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi
Nhìn
tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp
Con
mắt cón lại nhìn cuộc tình phai
Tình trong hai
tay một hôm biến mất
Con
mắt còn lại là con mắt ai
Con
mắt còn lại nhìn tôi thở dài...
Nếu
chúng ta có ba con mắt như Dương Tiễn trong Tây
Du Ký thì dễ cho ta suy đoán ý của tác giả biết
mấy, đằng này ta chỉ có hai con khiến phải động
não đây. Trong nhà Phật có năm thứ mắt: nhục
nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật
nhãn… Phàm phu chúng sinh đều có nhục nhãn và
tuệ nhãn, tuệ nhãn hiển thị, thấu thị nhiều hay
ít, thấp hay cao là tùy ở sự tu tập, chuyển hóa
khổ đau của mỗi chúng sanh. Ai mà có Định có Tuệ
có tu tập nghiêm chỉnh đàng hoàng thì có mắt tuệ
(tuệ nhãn) thấy biết hết, dự cảm chuyện tương
lai, đoán việc như thần. Tuệ nhãn ở nơi chúng
sinh có và sáng từng lúc, lúc nào có tu, có
thao thức nghĩ đến vận mệnh của quê hương và đạo
pháp, thì lúc đó đôi mắt rực sáng, có nhiều vị
lãnh tụ cũng có đôi mắt này. Còn lúc nào vong
thân quên lãng, sống say chết mộng thì mắt chỉ
còn thấy mờ mờ, một con mà thấy sáng vẫn quý hơn
hai con mà mờ.
Con
người vốn dĩ mau quên, mà mau quên thì bị
người đời chê trách và nhắc: Thôi thì khóc
người một con thôi, khóc cả hai con bị dư nước
mắt, mà còn phải dự phòng nữa chứ. Câu một câu
hai là nhục nhãn. Câu ba bốn năm sáu là nhìn
bằng mắt tuệ (tuệ nhãn), có tuệ nhãn nên mới
biết nhìn lại mình, xếp bằng ngồi quán chiếu
“nhìn tôi lên cao, nhìn tôi xuống thấp”. “Con
mắt còn lại nhìn cuộc tình phai, tình trong hai
tay một hôm biến mất”, ngộ lý vô thường chưa? Có
khi nào lên cao mãi mà không xuống thấp, có cuộc
tình nào mãi ấm nồng mà không phai lạt, cứ ngỡ
cứ tưởng chồng mình con mình vợ mình tài sản
mình, là mãi mãi thuộc về mình, luôn khư khư
nắm chặt trong tay, nhưng đùng một cái một hôm
biến mất.
Trong
đau thương mất mát hụt hẫng vô vọng, bỗng lóe
lên một vầng sáng, trong vầng sáng đó có một
con mắt từ bi nhìn mình, mời gọi mình. Mắt ai
vậy? Vẫn chưa rõ chưa nhận là mắt ai à? Mắt Phật
chớ còn mắt ai (từ nhãn thị chúng sinh) lấy mắt
từ bi mà nhìn mọi loài chúng sinh. Ngài thương
quá nên nhìn tôi, nhìn chị, nhìn em… thở dài.
“Con mắt còn lại là con mắt ai, con mắt còn lại
nhìn tôi thở dài” câu bảy, tám.
Khổ
hai.
Còn
hai con mắt khóc người một con
Còn
hai con mắt một con khóc người
Con
mắt còn lại nhìn một thành hai
Nhìn
em yêu thương nhìn em thú dữ
Con
mắt còn lại ngờ vực tình tôi
Cuồng
điên yêu thương cuồng điên nỗi nhớ
Con
mắt còn lại nhìn mây trắng bay
Con
mắt còn lại nhìn tôi bùi ngùi
Câu
một, hai điệp khúc.
Nguyên
nhân của khổ đau là từ một mà nhìn thành hai.
Tâm ban đầu (Sơ Tâm) con người dễ thương lắm,
trong veo không phân biệt người thân kẻ sơ, chưa
phân biệt như các bé thơ nên nhìn ai cũng cười,
cũng quơ tay đòi ẵm, nhưng đến khi ý thức lớn
mạnh, biết phân biệt người lạ kẻ quen thì không
còn một nữa, mà đã hóa thành hai. Chân tâm,
Phật tánh, bản thể chân như, tự tánh thanh tịnh…
hay nói như thi sĩ Bùi Giáng “vì em có cái lạ
lùng bên trong”, sống với tự tánh thanh tịnh,
cái lạ lùng bên trong đó, nên em mới đẹp, chớ
không phải phấn son lòe loẹt mà em đẹp. Từ cái
đẹp bên trong, mới biểu hiện cái đẹp bên ngoài.
Bởi không sống với vô phân biệt trí nên mới thấy
một thành hai, khi thì nhìn em yêu thương, khi
thì nhìn em như thú dữ. Bởi sống trong ngã chấp,
ngã ái nên sợ mất. Bởi chưng sợ mất nên cuồng
điên yêu thương, cuồng điên nỗi nhớ. Yêu mà chân
thật đàng hoàng, thì luôn tỉnh táo, tỉnh táo để
nhận diện, chấp nhận ưu khuyết điểm của nhau để
sống chung. Chứ cuồng điên khi yêu, khi tỉnh lại
ta không còn yêu nữa. Cũng vậy, nhớ mà cuồng
điên thì khi tỉnh lại ta không còn nhớ nữa. Biết
tu tâm một chút, bớt phù phiếm xa hoa đua đòi
một chút. Biết nỗi khổ của vợ của con ở nhà với
canh rau dưa muối mà nén lòng trong những bữa dạ
tiệc cao sang một chút. Được như vậy chỉ yêu
bình thường thôi. Bởi bình thường tâm thị Đạo,
không cần phải cuồng điên gì hết. Bốn câu này là
nhìn bằng mắt thịt (nhục nhãn).
Và khi
nhận diện chuyển hóa niềm đau nỗi khổ rồi, một
không thành hai nữa, mà một là tất cả, tất cả
trong một. Lúc bấy giờ ngồi trước hiên nhà,
nghe thoang thoảng hoa cau, mà nhìn mây trắng
bay. Và vẫn còn một chút hối hận ngày qua, bỗng
thốt lên: May mà, may mà...! len vào trong tâm
một chút bùi ngùi. Hai câu bảy, tám này là quán
chiếu bằng tuệ nhãn.
Khổ
ba.
Còn
hai con mắt khóc người một con
Còn
hai con mắt một con khóc người
Con
mắt còn lại nhìn đời là không
Nhìn em hư vô nhìn em bóng nắng
Con
mắt còn lại nhẹ nhàng từ tâm
Nhìn em ra đi lòng em xa vắng
Con
mắt còn lại là đêm tối tăm
Con
mắt còn lại là đêm nồng nàn.
Câu
một, hai điệp khúc.
Thực tính của cuộc đời, của vạn hữu là không.
Không
đây không phải là không ngơ, là trống không, mà
nhìn sắc thấy có không, nhìn không thấy có sắc,
sắc tức là không, không tức là sắc, tất cả chỉ
là nhân duyên hòa hợp giả có giả không. Không
đây là Không của trung quán luận, vượt thoát tất
cả mọi ý niệm đối đãi. Nhìn đời là Không, nhìn
em hư vô, nhìn em bóng nắng. Tuyệt quá! Nhìn
được như vậy tức là nhìn bằng mắt tuệ. Nhìn em
hư vô, nhìn em bóng nắng. Từ hư vô của tây
phương khác với từ Không của Phật giáo, dịch chữ
Không là hư vô là không chính xác. Hư vô mà
Trịnh Công Sơn viết trong ca từ là ám chỉ, còn
đó mất đó, nắm trong tay rồi một hôm biến mất,
như vậy hư vô đây là vô thường. Đi giữa sa mạc
hay đi vào vùng nhiều đồi cát nóng, những ngày
nắng gắt, mắt ta thấy có hiện tượng như sóng
dợn, lóm đóm lao xao, nhà Phật gọi là hoa đóm,
để chỉ cho những hiện tượng mong manh sanh diệt
đổi dời của vũ trụ nhân sinh, cứ tưởng thật mà
chẳng thật chút nào, Trịnh Công Sơn gọi hoa đóm
là bóng nắng. Thấy em là hư vô, là bóng nắng thì
em có bỏ ta mà đi, thì cũng nhẹ nhàng từ tâm
thôi, vì ta đã hiểu sự đời tình đời, duyên
nghiệp vốn như vậy mà, dẫu em ra đi lòng em xa
vắng không còn nhớ gì ân tình kỷ niệm ngọt ngào
một thuở. Có tuệ nhãn trong bốn câu này.
Trịnh
Công Sơn quy y Tam Bảo với pháp danh Nguyên Thọ,
lúc nhỏ thường theo mẹ lên chùa Phổ Quang lễ
Phật, thiên phú có chất giọng trầm ấm và mê nhạc
lễ chùa, nên được các thầy ở chùa Phổ Quang dạy
nghi lễ, chính vì vậy mà một số nhạc phẩm của
anh, trong đó có bài Ca Dao Mẹ, chỉ cần có cái
chuông cái mõ là đệm tốt cho bài hát.
Đến
với đạo Phật từ nhỏ, học đạo, học Phật rất sớm,
trưởng thành tiếp tục học trường Triết, nên
Trịnh Công Sơn luôn nghĩ đến vô thường, đến hư
vô, đến cái chết, chết là một ám ảnh đối
với anh. Thỉnh thoảnh anh nằm mơ thấy mình qua
đời. Có duyên với đạo, biết đạo là một chuyện,
còn có tu tập để chuyển hóa khổ đau, vượt thoát
ý niệm sanh tử, còn mất có không để thong dong
tự tại nhìn mây trắng bay như các Thiền Sư là
một chuyện khác. Ta không nên đòi hỏi ở anh quá
nhiều, nhưng nếu Trịnh Công Sơn gặp một đạo sư
tâm linh hợp gu với anh, như anh kỳ vọng, hướng
dẫn anh tu tập thì chúng ta đã có được thánh sư
- nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, như trường hợp ở Ấn Độ
có thi hào Tagore, được xưng tụng là bậc thánh
trong thi đàn thế giới.
Chúng
ta tiếc vô cùng cho hai câu kết: "Con mắt còn
lại là đêm tối tăm, con mắt còn lại là đêm nồng
nàn"...
Thích Giác Tâm


|