TỪ TỔ MA-HA
CA-DIẾP
ĐẾN TỔ MINH HẢI
PHÁP BẢO
Tâm Lễ - Vương Học
Chúng ta tiếp
nhận huyết thống, gốc rễ từ Tổ Tiên, nhưng nếu
không có Ông Bà, Cha Mẹ sinh đẻ, nuôi nấng thì
không có chúng ta hôm nay, nên phận làm con phải
biết về danh tánh, gia phả, giòng họ và nơi sinh
cơ lập nghiệp của Tổ Tiên mình. Đối với người
Phật tử cũng vậy. Đức Phật thị hiện tại thế gian
để khai thị chúng sanh nhộ nhập tri kiến Phật,
nhưng nếu không có Thầy, Tổ truyền đăng tục diệm,
truyền giới, truyền pháp thì mạng mạch Phật pháp
không thể tồn tại cho đến hôm nay. Bởi thế cho
nên người học Phật phải tìm hiểu về tông phái
mình để báo ân Thầy, Tổ. Chính trong niệm báo ân
đó mà mỗi khi thuyết pháp, truyền giới, tụng
giới, chúng ta đều niệm câu: “Nam Mô Tây Thiên
Đông Độ Nam Độ lịch đời Tổ Sư Bồ Tát”. Vậy Tổ
Tây Thiên gồm những ai? Tổ Đông Độ, Nam Độ gồm
những vị nào chúng ta cần phải biết.
Trong phạm vi bài
này sẽ trình bày 2 phần: Sơ lược sự hình thành
các tông phái, và Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh.
Sau 49 năm thuyết
pháp độ sanh. Trước khi nhập niết bàn, Đức Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật truyền y bát cho:
Ngài Ma Ha Ca
Diếp làm tổ thứ 1
Ngài A Nan làm tổ
thứ 2
Ngài Thương Na
Hòa Tu làm tổ thứ 3
Ngài Ưu Ba Cúc Đa
làm tổ thứ 4
Ngài Đề Đa Ca làm
tổ thứ 5
Ngài Di Dá Ca làm tổ thứ 6
Ngài Bà Tu Mật làm tổ thứ 7
Ngài Phật Đ à Nan Đề làm tổ thứ 8
Ngài Phục Đà Mật Đa làm tổ thứ 9
Ngài Hiếp Tôn Giả làm tổ thứ 10
Ngài Phú Na Dạ Xa làm tổ thứ 11
Ngài Mã Minh làm tổ thứ 12
Ngài
ca Tỳ Ma La làm tổ thứ 13
Ngài Long Thọ làm
tổ thứ 14
Ngài Ca Na Đề Bà
làm tổ thứ 15
Ngài
La Hầu La Đa làm tổ thứ 16
Ngài
Tăng Già Nan Đề làm tổ thứ 17
Ngài
Già Da Xá Đa làm tổ thứ 18
Ngài
Cưu Ma La Đa làm tổ thứ 19
Ngài
Xà Dạ Đa làm tổ thứ 20
Ngài
Bà Tu Bàn Đầu làm tổ thứ 21
Ngài
Ma Noa La làm tổ thứ 22
Ngài
Hạc Lặc Na làm thổ thứ 23
Ngài
Sư Tử làm tổ thứ 24
Ngài
Bà Xá Tư Đa làm tổ thứ 25
Ngài
Bất Như Mật Đa làm tổ thứ 26
Ngài
Bát Nhã Đa La làm tổ thứ 27
Ngài
Bồ Đề Đạt Ma làm tổ thứ 28
Tổ Tổ tương
truyền, từ Tổ thứ 1 là ngài Ma Ha Ca Diếp đến Tổ
thứ 28 là Ngài Bồ Đề Đạt Ma, khoảng 975 năm. Đó
là 28 đời Tổ Tây Thiên vậy.
Năm 517 Tổ Bồ Đề
Đạt Ma vâng lời di giáo của thầy mình là Tổ Bát
Nhã Đa La dùng thuyền rời Ấn Độ và 3 năm sau (sau
520) Ngài tới Trung Hoa. Tại Trung Hoa Ngài diễn
xướng pháp môn Thiền Tông nên Ngài trở thành Sơ
Tổ Đông Độ và Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa. Đó là
lý do tại sao tại các chùa Trung Hoa và Việt Nam
đều có Tổ Đường thờ Ngài (hình tượng Ngài đang
quảy 1 chiếc giày cỏ - Vua Hậu Ngụy sai Tống Văn
đi xứ Ấn Độ về gặp Ngài đang quảy 1 chiếc giày
đi như bay qua núi Thông Lãnh. Hỏi đi đâu thì
Ngài trả lời là về Ấn Độ. Sau về tâu với Vua mở
quan tài của Ngài ra xem thì thấy chỉ còn một
chiếc giày (chiếc giày nầy được các môn đồ của
Ngài đem về thờ tại chùa Thiếu Lâm).
Năm 520 Tổ Bồ Đề
Đạt Ma đến Trung Hoa (ngày 21 tháng 9 năm Canh
Tý, niên hiệu Phổ Thông năm đầu), vào đời nhà
Lương, dưới triều vua Lương Võ Đế. Sau vì không
đủ nhân duyên truyền pháp, Ngài bỏ sang nước
Ngụy nhằm đời Hậu Ngụy vua Hiếu Minh Đế, ngày 23
tháng 11 niên hiệu Chánh Quang năm đầu. Ngài đến
chùa Thiếu Lâm động Thiếu Thất (nằm trong dãy
Tung Nhạc huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam. Dãy
Tung Nhạc có 36 ngọn núi. Phía đông có ngọn Đại
Thất, phía Tây có ngọn Thiếu Thất. Tại đây chùa
Thiếu Lâm được xây năm 495, 25 năm trước khi Tổ
Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa).
Tại Động Thiếu
Thất suốt 9 năm Ngài ngồi đối vách tham thiền (cửu
niên diện bích tham thiền). Người đương thời gọi
môn nầy là Bích Quán và gọi Ngài là Bích Quán Bà
La Môn.
Trước khi nhập
diệt, Ngài truyền y bát lại cho Ngài Huệ Khả làm
Tổ thứ 2 và có dặn rằng: “…Trong truyền tâm
ấn để khế hợp chỗ tâm chứng, ngoài truyền y bát
để định tông chỉ vì ở đời có người cho rằng ta
là người Ấn, ông là người Trung Hoa, lấy gì để
làm minh chứng. Nhưng hai trăm năm sau khi ta
diệt độ, lúc đó Phật pháp đã thịnh hành, lòng
người đã thuần thành, y bát nầy dừng lại, không
truyền. Hơn nữa y bát là vật chất, đầu mối của
sự tranh dành…”, rồi Ngài nói bài kệ:
“Ngô bổn lai tư
độ
Truyền Pháp cứu
mê tình
Nhất hoa khai ngũ
diệp
Kết quả tự nhiên
thành”
(Ta sang đến cõi
nầy
Truyền pháp cứu
mê tình
Một hoa nở năm
cánh
Nụ trái tự nhiên
thành)
Khi Tổ Bồ Đề Đạt
Ma nhập diệt (543). Ngài Huệ Khả kế thừa làm tổ
thứ 2 Thiền Tông Trung Hoa, Ngài Tăng Xán làm Tổ
thứ 3, Ngài Đạo Tín làm Tổ thứ 4, Ngài Hoằng
Nhẫn làm Tổ thứ 5, Ngài Huệ Năng làm Tổ thứ 6.
Từ Nhị Tổ Huệ Khả truyền đến Lục Tổ Huệ Năng là
5 đời, phù hợp với câu "Nhất hoa khai ngũ diệp"
- khoảng 200 năm.
Sau khi Lục Tổ
Huệ Năng diệt độ (713-TL) Thiền Tông Trung Hoa
dần dần chia thành năm tông phái (Ngũ gia thiền):
-
Tông Quy Ngưỡng
do Thiền Sư Linh Hựu ở Quy Sơn làm Sơ Tổ
- Tông Lâm Tế do
Thiền Sư Nghĩa Huyền ở Lâm Tế làm Sơ Tổ
- Tông Tào Động
do Thiền Sư Lương Giới ở Động Sơn làm Sơ Tổ
- Tông Vân Môn do
Thiền Sư Văn Yến ở Vân Môn làm Sơ Tổ
- Tông Pháp Nhãn
do Thiền Sư Văn Ích ở Pháp Nhãn làm Sơ Tổ.
Tông Lâm Tế do
Thiền Sư Nghĩa Huyền ở Lâm Tế làm Sơ Tổ, truyền
đến đời thứ 21,
“Tổ đạo giới
định tôn
Phương quảng
chứng viên thông
Hạnh siêu minh
thiệt tế
Liễu đạt ngộ chơn
không
Như nhựt quang
thường chiếu
Phổ châu lợi ích
đồng
Tín hương sanh
phước huệ
Tương kế chấn từ
phong”.
Tại Việt Nam,
dưới đời chúa Nguyễn Phúc Tần niên hiệu Cảnh Trị
năm thứ 3 (1665), có một cao tăng người Quảng
Đông theo tàu buôn đến tại phủ Quy Nhơn (Bình
Định bây giờ). Ngài họ Tạ, húy Siêu Bạch, pháp
tự Hoán Bích, hiệu Nguyên Thiều, thuộc đời pháp
thứ 33 dòng Lâm Tế chánh tôn. Tại phủ Quy Nhơn,
Ngài mở trường truyền pháp và khai sơn
chùa Thập
Tháp Di Đà
(tọa lạc tại làng Thuận Chánh, huyện Tuy Viễn -
Được gọi là Thập Tháp vì sau chùa có mười ngôi
cổ tháp của người Chàm). Sau Ngài ra Thuận Hóa
(huyện Phú
Lộc, tỉnh Thừa Thiên) lập chùa Hà Trung, khoảng
10 năm sau Ngài lên kinh đô Huế lập chùa Quốc Ân
và xây tháp Phổ Đồng (tọa lạc tại ấp Phước Quả,
phường Trường An thành phố Huế). Hiện nay chùa
Thập Tháp Di Đà
tại Bình Định, chùa Quốc Ân tại Huế đều là những
tổ đình
được sắc tứ mà oai phong vẫn còn đến hôm nay.
Ở tại chùa Quốc
Ân được ít lâu Ngài phụng mệnh vua Anh Tôn (Nguyễn
Phúc Trăn) sang Trung Hoa để thỉnh cao tăng và
pháp khí, pháp tượng. Chúng ta không biết rõ là
những cao tăng nào đã được Ngài Nguyên Thiều
thỉnh qua Đại Việt lúc đó,
nhưng theo bia ký có ghi lại một số Thiền Sư
Trung Hoa có mặt tại Việt Nam vào giai đoạn này
như:
-
Thiền Sư Hải
Trừng Chuyết Chuyết ở chùa Ninh Phúc Bắc Ninh
(1633 Đàng
Ngoài - Thăng Long)
- Thiền Sư Lục Hồ
Viên Cảnh và Đại Thâm Viên Khoang ở Quảng Trị
- Thiền Sư Giác
Phong, khai sơn chùa Thiên Thọ (tức chùa Báo
Quốc), Thuận Hóa
- Thiền Sư Minh
Hoằng Tử Dung, khai sơn chùa Ấn Tôn (tức chùa Từ
Ðàm) Thuận Hóa
- Thiền Sư Từ Lâm,
khai sơn chùa Từ Lâm, Thuận Hóa
- Thiền Sư Minh
Vật Nhất Trí, khai sơn chùa Kim Cang Đồng Nai
-
Thiền Sư Minh
Hải Pháp Bảo, khai sơn chùa Chúc Thánh, Quảng
Nam
- Thiền Sư Quả
Hoằng Hưng Liên, khai sơn chùa Tam Thai, Quảng
Nam
- Thiền Sư Pháp
Hóa (hiệu Minh Hải Phật Bảo) khai sơn chùa Thiên
Ấn, Quảng Ngãi
- Thiền Sư Tế
Viên, khai sơn chùa Hội Tôn, Phú Yên
- Thiền Sư Thạnh
Liêm, khai sơn chùa Thiền Lâm, Thuận Hóa
- Thiền Sư Minh
Hoàng Định Nhiên
- Thiền Sư Minh
Hành Tại Toại trú trì chùa Phật Tích, Bắc Ninh
và chùa Ninh Phúc, Bút Tháp Bắc Ninh
Ngài Minh Hành có
biệt xuất bài kệ truyền pháp:
“Minh chân như
tính hải
Kim tường phổ
chiếu thông
Chí đạo thành
chánh quả
Giác ngộ chứng
chơn không”
(Thấy chân như
biển rộng
Ánh vàng chiếu vô
cùng
Đạt đạo thành
chánh quả
Giác ngộ chứng
chơn không)
Trú trì tại chùa
Hà Trung không bao lâu thì Ngài Nguyên Thiều
viên tịch, thọ 81 tuổi. Chúa Nguyễn Phúc Chu
tặng Ngài thụy hiệu là Hạnh Đoan Thiền Sư. Trước
khi viên tịch Ngài có để lại bài kệ:
“Tịch tịch
cảnh vô ảnh
Minh minh châu
bất dung
Đường đường vật
phi vật
Liêu liêu không
vật không”
(Lặng lẽ gương
không chiếu bóng
Sáng trưng ngọc
chẳng thâu hình
Rõ ràng vật không
phải vật
Mênh mông không
chẳng là không)
Vào đầu thế kỷ 17
(Trung Hoa đang ở gia đoạn chuyển tiếp giữa hai
triều đại Minh và Thanh. Và nước ta đang trong
thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh, một số đông các
vị cao tăng từ Trung Hoa đến Việt Nam hoằng hóa,
mở ra các tòng lâm, đạo tràng truyền giới,
truyền pháp thật hưng thạnh đã góp phần rất lớn
cho sự phát triển Phật Giáo tại nước nhà, tạo
ảnh hưởng quan trọng trong việc phục hưng đạo
Phật đến hôm nay. Tuy nhiên trong giai nầy Đạo
Phật nước ta từ cách lễ nhạc, truyền pháp, hành
đạo đều mang nặng sắc thái Trung Hoa, cho đến
khi ở Đàng
Ngoài có Thiền sư Chân Nguyên và Đàng
Trong có Thiền Sư Liễu Quán thì Đạo Phật mới dần
dần có màu sắc Việt Nam.
Thiền sư Chân
Nguyên thế danh là Nguyễn Nghiêm, quê ở làng
Tiền Liệt, huyện Tiên Hà, tỉnh Hải Dương, xuất
gia năm 19 tuổi; tu hạnh đầu đà,
đắc pháp với Thiền Sư Minh Lương ở chùa Vĩnh
Phúc núi Côn Cương được Thiền Sư Minh Lương đặt
Pháp danh là Chân Nguyên. Thiền Sư Minh Lương và
Thiền Sư Minh Hành là đệ tử của thiền Sư Hải
Trừng Chuyết Chuyết, người có công đem Thiền
Phái Lâm Tế từ Trung Hoa truyền ở Đàng
Ngoài trước tiên. Thiền sư Chân Nguyên là người
có tài đức thường được vua Lê Hi Tông triệu vào
cung để thuyết pháp và được vua ban cho hiệu là
Vô Thượng Công. Năm 1722 lúc 76 tuổi Ngài được
vua Lê Dụ Tông phong chức Tăng Thống và ban
hiệu là Chánh Giác Hòa Thượng. Ngài tịch vào
tháng 10 âm lịch năm 1726, thọ thế 80 tuổi. Ngài
và các cao đồ của Ngài như Như Sơn, Như Trí, Như
Hiện, Như Trừng, Tịnh Quang, Tuệ Hiền, Huệ
Nguyên... đã có công phục hưng lại thiền phái
Trúc Lâm tại Đàng
Ngoài, phục hồi nền văn học Phật giáo nước ta.
-
Ngài Như Sơn soạn
Kế Đăng Lục (1715)
- Ngài Như Trí
trùng san Thiền Uyển Tập Anh (1715)
- Ngài Tịnh Quang
trùng san Thánh Đăng Lục (1750)
- Ngài Tuệ Hiền
trùng khắc Khóa Hư Lục
-
Ngài Huệ Nghiêm
trùng san Thương Số Ngữ Lục
- Ngài Như Trừng
và Như Hiện dịch ra chữ Nôm những văn bản từ
trước chỉ được lưu truyền bằng chữ Hán như Sa Di
Thập Giới, Hai Mươi Bốn Thiên Oai Nghi... Sách
Tam tổ Thực Lục cũng do những hậu duệ trong pháp
phái trùng san năm 1765.
Thiền Sư Liễu
Quán pháp danh Thiệt Diệu sanh năm 1670 trong
một gia đình
nghèo tại làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh
Phú Yên, Miền Trung. Ngài mồ côi mẹ từ năm lên
6 tuổi, Được cha cho học đạo với Hòa Thượng Tế
Viên ở chùa Hội Tôn. Năm 12 tuổi thọ Sa Di giới
với Hòa Thượng Thạch Liêm tại chùa Thiền Lâm, và
thọ Cụ túc giới với Đại Lão Hòa Thượng Từ Lâm
năm ngài 27 tuổi. Ngài là người có chí cầu học,
du phương, tham vấn khắp các thiền lâm. Năm 1702
Ngài đến chùa Ấn Tôn núi Long Sơn, Thuận Hóa bái
yết Hòa
Thượng Tử Dung cầu pháp tham thiền. Hòa Thượng
Tử Dung có dạy Ngài tham khảo công án: "Vạn pháp
quy nhất, nhất quy hà xứ?" (Muôn pháp về một,
một về chỗ nào?)
Ngài lãnh thọ yếu
chỉ "thoại đầu" lui về Phú Yên tĩnh cư, tham cứu
một thời gian dài mà chưa phá vỡ được công án ấy,
trong lòng lấy làm hổ thẹn. Một hôm nhơn đọc
sách Truyền Đăng Lục đến câu: "Chỉ vật truyền
tâm, nhân bất hội xứ" (Chỉ vật truyền tâm, người
không hiểu được) Ngài hốt nhiên tỏ ngộ.
Từ đó,
Ngài đi khắp nơi để hoằng dương chánh pháp, xả
thân hành đạo, cứu khổ độ mê. Liên tiếp trong 3
năm Quý Sửu (1733) Giáp Dần (1734) Ất Mão
(1735), Ngài đã không quản gian lao, khó nhọc,
nhận lời của chư Tôn môn, các tể quan, Cư sĩ ở
Huế chủ tọa 4 Đại Giới Đàn. Đến
năm Canh Thân (1740) Ngài được thỉnh làm chủ tọa
Giới Đàn
Long Hoa để truyền trao giáo pháp cho đàn
hậu tấn. Đến mùa xuân năm Nhâm Tuất (1742) tuy
đã 72 tuổi đại chúng lại thỉnh cầu Ngài làm
Đường Đầu Hòa Thượng cho Đại Giới Đàn
tổ chức tại chùa Viên Thông.
Lúc bấy giờ, thân
tứ đại đã già yếu, biết sắp xả báo thân, Ngài
bèn họp đồ chúng lại dạy rằng "Nhơn duyên đã mãn
ta sắp đi đây". Lúc ấy Đại chúng đảnh lễ, ai nấy
đều đau buồn, than khóc, Ngài khuyên rằng: "Các
ngươi đừng khóc, chư Phật ra đời còn nhập niết
bàn, Ta nay đi lại rõ ràng, về tất có chỗ, không
việc gì phải khóc".
Buổi sáng mai,
nhằm ngày 21 tháng 11 âm lịch Nhâm Tuất (1742),
gọi thị giả mang giấy bút tới, Ngài ngồi dậy
ngay thẳng cầm bút viết bài kệ rằng:
“Thất thập dư
niên thế giới trung
Không không sắc
sắc diệc dung thông
Kim triêu nguyện
mãn hoàng gia lý
Hà tất bôn mang
vấn tổ tông”
(Ngoài bảy mươi
năm cõi sắc không
Sắc không không
sắc thảy dung thông
Hôm nay nguyện
mãn về quê cũ
Nào phải ân cần
hỏi tổ tông).
Viết kệ xong Ngài
dặn đồ chúng rằng: “Sau khi Ta đi các Ngươi phải
nghĩ đến sự vô thường nhanh chóng của cuộc đời
mà siêng năng tu tập trí tuệ, chớ quên lời dặn
của Ta”. Dặn dò đồ chúng xong, Ngài an nhiên thị
tịch trong tư thế kiết già (lúc 2 giờ chiều ngày
21 tháng 11 năm Nhâm Tuất tại chùa Viên Thông
dưới chân núi Ngự Bình, thọ 72 tuổi). Chúa
Nguyễn Phúc Khoát hay tin đến lễ bái và ban cho
Ngài bia ký thụy hiệu là Đạo Hạnh Thụy Chánh
Giác Viên Ngộ Hòa Thượng.
Nhục thân của
Ngài được tôn trì nơi bảo tháp cách chùa Thuyền
Tôn độ hơn 1 km về phía đông nam. Ngôi tháp nầy
do chúa Nguyễn Phúc Khoát xây, mặt tiền có tôn
trí 2 câu đối để tưởng nhớ công hạnh của Ngài:
"Bảo đạc
trường minh bất đoạn môn tiền lưu lục thủy
Pháp thân độc lộ
y nhiên tọa lý khán thanh sơn"
(Tiếng mõ vang
lừng trước ngõ tuôn trào dòng suối biếc
Pháp thân vòi vọi
quanh tòa cao ngất dãy non xanh)
Ngài đắc pháp với
Hòa Thượng Minh Hoằng Tử Dung, trở thành đời
pháp thứ 35 dòng Lâm Tế chánh tôn. Ngài là tổ
khai sơn chùa Thuyền Tôn tại ấp Ngũ Tây, làng An
Cựu bên trái núi Thiên Thai, Thừa Thiên - Huế.
Thiền phái Lâm Tế Liễu Quán do Ngài làm Sơ Tổ
được truyền theo bài kệ truyền pháp do Ngài biệt
xuất sau đây:
“Thiệt tế đại
đạo
Tánh hải thanh
trừng
Tâm nguyên quảng
nhuận
Đức bổn từ phong
Giới định phước
huệ
Thể dụng viên
thông
Vĩnh siêu trí quả
Mật khế thành
công
Truyền trì diệu
lý
Diễn xướng chánh
tông
Hạnh giải tương
ưng
Đạt ngộ chơn
không”
(Đường lớn thực
tại
Biển thể tính
trong
Nguồn tâm thấm
khắp
Gốc đức vun trồng
Giới định cùng
tuệ
Thể dụng viên
thông
Quả trí siêu việt
Hiểu thấu nên
công
Truyền giữ lý mầu
Tuyên dương chánh
tông
Hành giải song
song
Đạt ngộ chơn
không)
Thiền sư Liễu
Quán và các hậu duệ của Ngài đã làm cho thiền
phái Lâm Tế từ Trung Hoa trở nên sinh động, phát
triển ra khắp miền Trung và miền Nam Việt Nam.
Nhờ vậy mà dân chúng được thấm nhuần ảnh hưởng
tốt đẹp của đạo Phật, và tạo điều kiện cho sự
chấn hưng Phật Giáo Việt Nam từ lúc đó
cho tới bây giờ. Các vị cao tăng lãnh đạo trong
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hiện nay
phần lớn xuất thân từ môn phái nầy.
Cùng với sự hình
thành và phát triển của Thiền Phái Lâm Tế Liễu
Quán tại Huế là Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh tại
Hội An, Quảng Nam do Pháp Bảo Đại Sư khai sáng.
Ngài pháp danh
thượng Minh hạ Hải, tự Đắc Trí hiệu Pháp Bảo,
người tỉnh Phước Kiến Trung Hoa, là một trong
những cao tăng được ngài Nguyên Thiều mời qua
Việt Nam dưới thời vua Anh Tôn Nguyễn Phúc Trăn
(1687-1691).
Sau khi tham dự
giới đàn
truyền giới tại chùa Linh Mụ, Ngài vào núi Ngũ
Hành Sơn (8 km đông nam Đà
Nẵng) lập một am nhỏ ẩn tu. Tại đây Ngài có làm
một bài kệ:
“Minh thiệt
pháp toàn chương
Ấn chơn như thị
đồng
Vạn hữu duy nhất
thể
Quán liễu tâm
cảnh không
Giới hương thành
chánh quả
Giác hải dũng
liên hoa
Tinh tấn sanh
phước huệ
Hạnh trí giải
viên thông
Ảnh nguyệt thanh
trung thủy
Vân phi nhật khứ
lai
Đạt ngộ vi diệu
tánh
Hoằng khai tổ đạo
trường”.
Bài kệ này được
khắc vào bia đá và văn bia hiện được dựng trước
chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn Đà Nẵng.
Sau thời gian ẩn
tu, Ngài vào khu phố của người Hoa ở thị xã Hội
An, tỉnh Quảng Nam khai sơn chùa Chúc Thánh và
khai sáng một dòng thiền mới là Thiền Phái Lâm
Tế Chúc Thánh.
Thiền phái Lâm Tế
Chúc Thánh do Ngài khai sáng được truyền thừa
thứ tự theo bài kệ truyền pháp sau đây:
“Minh thiệt
pháp toàn chương
Ấn chơn như thị
đồng
Chúc thánh thọ
thiên cửu
Kỳ quốc tộ địa
trường.
Đắc chánh luật vi
tuyên
Tổ đạo giải hạnh
thông
Giác hoa bồ đề
thọ
Sung mãn nhân
thiên trung”
(Hiểu thấu pháp
chân thật
Ấn chơn như hiện
tiền
Cầu thánh quân
tuổi thọ
Chúc đất nước
vững bền
Giới luật nêu
trước tiên
Giải và hạnh nối
liền
Hoa nở cây giác
ngộ
Hương thơm lừng
nhân thiên).
Môn phái Lâm Tế
Chúc Thánh hiện đã truyền đến thế hệ thứ 11-12
tức đời pháp thứ 44-45 của tông Lâm Tế và đã
phát triển trên khắp năm châu.
Chùa Chúc Thánh là
Tổ đình
của môn phái Chúc Thánh(hiện tọa lạc tại phường
Cẩm Phô, thị xã Hội An, Quảng Nam) với hai câu
đối treo ở tiền đường:
“Chúc Nam quốc
chí tôn, tứ hải nhân dân hàm khể thủ
Thánh Tây Phương
ngự tọa, nhất đàn
tăng chúng tổng quy y”.
Tổ Minh Hải viên
tịch ngày 07 tháng 11 Bính Dần, thọ 72 tuổi. Xá
lợi của Ngài được tôn trí nơi bảo tháp trong
khuôn viên chùa.
Môn phái Lâm Tế Chúc Thánh lấy ngày 7 tháng 11
hằng năm làm ngày kỵ tổ.
Ngày nay
thiền
phái Chúc Thánh do Tổ Minh Hải khai sáng đã
phát triển khắp mọi nơi. Ở Hải Ngoại, chùa
Pháp Hoa tại tiểu bang South Autralia nước Úc
Đại Lợi do Hoà Thượng thượng Như hạ Huệ khai sơn;
Chùa Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc do Hòa
Thượng thượng Như hạ Điển khai sơn
đều là những
tòng lâm, đạo tràng hưng thạnh thuộc môn phái
Chúc Thánh, đã và đang mang lại biết bao lợi ích
cho nền văn hóa bản địa, cho xã hội và con người.
Tâm Lễ - Vương Học
=======================
Ghi chú:
- Trong bài này
phần dịch các bài kệ được tác giả trích từ Việt
Nam Phật Giáo Sử Luận
- Tựa bài do BBT
trang nhà Phật Giáo Đại Chúng ghi lại, nguyên
tác giả bài viết đề tựa là “Thiền Phái Lâm Tế
Chúc Thánh”
|