Tôn Giáo Trong Thời Đại
Khoa Học
Nguyên
tác: K. Sri Dhammananda
Việt
dịch: Diệu Hương
Khoa học đã làm cho con
người bơi giỏi hơn cá, bay cao hơn chim và đi bộ
trên mặt trăng... Khoa học không thể giúp con
người chế ngự tâm mình và cũng không đưa đến sự
kiểm soát đạo đức và mục đích của cuộc sống. Mặc
dù, khoa học có những sự kỳ diệu của nó, nhưng
khoa học vẫn có nhiều mặt hạn chế mà ở đó Phật
giáo đã vượt qua.
Ngày nay chúng ta
đang sống trong thời đại khoa học mà trong đó
mọi khía cạnh của đời sống chúng ta đều có ảnh
hưởng của khoa học. Từ cuộc cách mạng khoa học
suốt thế kỷ 17, khoa học đã tiếp tục phát triển
không ngừng cho đến ngày nay.
Tác động của khoa
học có sức mạnh đặc biệt đối với niềm tin tôn
giáo truyền thống. Nhiều những khái niệm tôn
giáo căn bản đang bị lung lay dưới áp lực của
khoa học hiện đại và chúng không thể được chấp
nhận nữa đối với giới trí thức. Ngày nay việc
thừa nhận chân lý chỉ ngang qua thần học hoặc
dựa vào giáo quyền kinh điển ngược với khoa học
không còn chấp nhận nữa. Chẳng hạn, việc phát
minh tâm lý học hiện đại đã chỉ ra rằng, tâm
cũng giống như thân của con người, hoạt động
theo quy luật nhân quả tự nhiên mà không có sự
hiện diện của một linh hồn bất biến như một vài
tôn giáo đã thuyết giảng.
Một số người quá
sùng đạo coi thường các khám phá khoa học đi
ngược với các tín điều tôn giáo của họ. Các thói
quen tâm lý cứng nhắc như vậy thật sự đã cản trở
bước tiến hóa của nhân loại. Vì con người ngày
nay khước từ niềm tin mù quáng mặc dù nó được
thừa nhận theo truyền thống, những người sùng
đạo như vậy sẽ chỉ thành công trong sự tăng
trưởng số lượng tín đồ với các giáo điều sai lầm
của họ.
Mặc khác, một số
nhà tôn giáo đã nhận ra sự cần thiết để thích
nghi với các lý thuyết khoa học phổ biến bằng
cách đưa ra sự giải thích về niềm tin tôn giáo
của họ. Như trường hợp học thuyết tiến hóa của
Darwin, nhiều nhà tôn giáo cho rằng con người do
Thượng đế tạo ra trực tiếp. Mặt khác, Darwin cho
rằng con người tiến hóa từ loài vượn, lý thuyết
này đã đánh đổ các triết lý tạo hóa của Thượng
đế và coi nhẹ con người. Từ khi tất cả các nhà
tư tưởng có hiểu biết đã chấp nhận học thuyết
Darwin, các nhà thần học ngày nay ít có sự chọn
lựa nào khác ngoài việc đưa ra một giải thích
mới cho các giáo lý của họ để thích hợp với học
thuyết này mà họ đã phản đối từ lâu nay.
Trong
ánh sáng của những khám phá khoa học, thật dễ
dàng để hiểu rằng nhiều quan điểm của tôn giáo
về thế giới quan và nhân sinh quan chỉ là những
tư tưởng ước lệ của những điều đã đang có. Thật
sự mà nói thì tôn giáo đã có những đóng góp to
lớn đối với sự phát triển và tiến hóa của con
người. Họ thừa nhận các giá trị, tiêu chuẩn và
những nguyên lý nền tảng để hướng dẫn đời sống
con người. Nhưng đối với tất cả điều tốt đã làm,
tôn giáo không thể tồn tại trong thời đại khoa
học hiện đại nếu họ khăng khăng bảo thủ chân lý
trong khuôn khổ hình thức giáo điều, khuyến
khích lễ nghi và các việc tu tập khác đã được
rút tỉa từ ý nghĩa nguồn gốc của họ.
1. Phật Giáo Và
Khoa Học
Mãi cho đến đầu
thế kỷ vừa qua, Phật giáo bị giới hạn trong
những nước mà khoa học hiện đại chưa phổ biến.
Tuy nhiên, từ thuở ban sơ giáo lý Ðức Phật luôn
luôn mở rộng tư tưởng khoa học.
Một lý do tại sao
lời dạy của Ðức Phật dễ dàng được chấp nhận bởi
tinh thần khoa học là vì Ðức Phật không bao giờ
khuyến khích niềm tin giáo điều cứng nhắc. Ngài
không tuyên bố giáo lý của Ngài dựa trên niềm
tin, tín thành nhưng cho phép sự uyển chuyển
linh hoạt và tự do tư tưởng.
Lý do thứ hai là
tinh thần khoa học được tìm thấy trong thế giới
quan của Phật giáo. Phương thức của Ðức Phật đối
với việc khám phá và chứng nghiệm chân lý thì
rất giống với những sự khám phá của các nhà khoa
học. Nhà khoa học quan sát thế giới bên ngoài
một cách khách quan và chỉ đưa ra học thuyết
khoa học sau khi đã kiểm chứng các thí nghiệm
thực tiển.
Cách đây hơn 25
thế kỷ, Ðức Phật đã vận dụng phương thức tương
tự khoa học quán sát thế giới nội tại bằng sự
suy xét vô tư khách quan và khuyến khích các đệ
tử của Ngài đừng chấp nhận bất cứ điều gì cho
đến khi nào họ đã thực sự nghiên cứu và xác
chứng tính thực tại của nó.
Giống như các nhà
khoa học ngày nay không thể tuyên bố thực nghiệm
của mình mà không thể thừa hưởng kinh nghiệm từ
những người khác, Ðức Phật không tuyên bố rằng
sự chứng đắc giác ngộ là chỉ độc quyền dành
riêng cho Ngài. Do đó, trong sự tiếp cận chân lý,
Ðức Phật đã có sự phân tích giống như các nhà
khoa học ngày nay. Ngài đã thiết lập phương thức
khoa học thực tiển cho việc đạt đến chân lý tối
hậu và thực nghiệm giác ngộ.
Phật giáo rất gần
gũi với tinh thần khoa học, nhưng sẽ không đúng
nếu cho rằng Phật giáo thì ngang hàng với khoa
học. Sự thật rằng các ứng dụng thực tiễn của
khoa học có khả năng làm cho đời sống con người
tiện nghi hơn và hưởng thụ hơn những điều trước
đây chưa từng có. Khoa học đã làm cho con người
bơi giỏi hơn cá, bay cao hơn chim và đi bộ trên
mặt trăng. Tuy nhiên, phạm vi kiến thức chấp
nhận trí tuệ khoa học ước lệ thì còn hạn chế
trong các chứng minh thực tế. Và chân lý khoa
học chịu sự biến đổi liên tục. Khoa học không
thể giúp con người chế ngự tâm mình và cũng
không đưa đến sự kiểm soát đạo đức và mục đích
của cuộc sống. Mặc dù, khoa học có những sự kỳ
diệu của nó, nhưng khoa học vẫn có nhiều mặt hạn
chế mà ở đó Phật giáo đã vượt qua.
2. Các Mặt Hạn
Chế Của Khoa Học
Thường thì người
ta nghe quá nhiều về khoa học và về những gì
khoa học có thể làm được nhưng ít biết được
những gì mà khoa học chưa hoặc không làm được.
Kiến thức khoa học bị giới hạn bởi những thông
tin nhận được ngang qua các giác quan. Nó không
thể nhận thức chính xác những điều vượt quá giới
hạn của giác quan. Chân lý khoa học được xây
dựng trên các quan sát lo-gíc của các dữ kiện
thuộc giác quan mà nó đang biến đổi liên tục. Do
đó, chân lý khoa học là chân lý tương đối không
có bền vững trước thách thức của thời gian và vì
nhà khoa học đã nhận biết được sự thật này, nên
luôn luôn sẳn lòng loại bỏ một học thuyết nếu
như nó có thể được thay thế bởi một học thuyết
khác tốt hơn.
Khoa học nỗ lực
tìm hiểu thế giới bên ngoài và đã bới tìm bề mặt
thế giới nội tại con người. Ngay cả khoa học về
tâm lý cũng không thật sự tìm hiểu hết nguyên
nhân sâu xa của các trạng thái bất an của con
người. Khi con người nản lòng, chán ghét cuộc
sống và thế giới nội tâm bị tràn ngập bởi xáo
trộn và bất an, thì khoa học ngày nay không có
nhiều phương tiện để giúp đỡ con người. Ðối với
môi trường sống xung quanh của con người, khoa
học xã hội có thể cung ứng một mức độ hạnh phúc
nhất định nào đó. Nhưng không giống như loài vật,
con người đòi hỏi nhiều hơn sự tiện nghi thân
thể và các nhu cầu giúp đối phó với khổ đau và
xáo trộn nảy sinh từ thực tế hằng ngày.
Ngày nay có quá
nhiều người bị sợ hãi, bất an và cảm thấy không
an ổn. Tuy nhiên, khoa học không thể giúp họ
được, khoa học không thể giúp chúng ta chế ngự
tâm mình khi mà bản năng đầy thú tính bất chợt
nổi lên và đốt cháy trong tâm.
Khoa học có thể
làm cho con người tốt hơn không? Nếu có, tại sao
các hành động khủng bố và các hành vi phi đạo
đức đầy dẫy trong các quốc gia mà các quốc gia
đó có nền khoa học tiên tiến? Thật ra không công
bằng để nói rằng mặc dù các tiến bộ khoa học đã
đạt được và có các lợi thế ban cho con người,
khoa học vẫn chưa có thể biến đổi nền tảng nội
tâm con người mà khoa học chỉ làm tăng thêm cảm
giác của con người về sự phụ thuộc và cảm thấy
thiếu thốn? Thêm vào đó, khoa học thất bại trong
việc đem sự an toàn đến cho mọi người. Khoa học
cũng khiến cho mọi người cảm thấy rất bấp bênh
bởi sự đe dọa thế giới có khả năng bị hủy diệt
con người trên quy mô lớn. Khoa học không thể
cung cấp đầy đủ ý nghĩa của cuộc đời, không thể
cung cấp cho con người các lý do rõ ràng chính
xác về cuộc sống. Thật tế khoa học là thế tục
hoàn toàn trong bản chất và không có liên quan
tới mục đích tâm linh của con người. Chủ nghĩa
vật chất vốn có tư tưởng khoa học đã chối bỏ các
mục tiêu tâm lý cao hơn mục tiêu thõa mãn vật
chất. Bằng những lý thuyết có chọn lọc và các
chân lý tương đối, khoa học coi thường các vấn
đề cốt lõi nhất và để lại nhiều câu hỏi không
thể trả lời được. Ví dụ, khi được hỏi về sự khác
nhau giữa tâm hồn và thể xác tồn tại trong con
người thì không một sự giải thích khoa học nào
có thể đưa ra đối với vấn đề như vậy. Vì vấn đề
đó vượt qua các giới hạn chật hẹp của khoa học.
3. Nhận Biết Cái
Không Biết
Tâm siêu việt
được Ðức Phật phát triển thì không bị giới hạn
bởi các thông tin cảm giác và vượt qua ngưỡng
cửa lô-gíc trong sự giới hạn của nhận thức tương
đối. Trái lại, khả năng hiểu biết của con người
hoạt động trên cơ sở của những thông tin mà nó
thu thập và tích chứa dù trong lãnh vực tôn giáo,
triết học, khoa học và nghệ thuật. Ðối với vấn
đề tâm lý, thông tin này được thu thập xuyên qua
các giác quan mà giác quan bị giới hạn trong
nhiều phương diện. Những thông tin giới hạn được
nhận thức khiến cho sự hiểu biết của chúng ta về
thế giới bị méo mó. Trong tác phẩm "Learned
Ignorance", của nhà học giả người Pháp Nicholas
, Cusa đã viết: "Tất cả những kiến thức phô
bày dựa trên các giác quan của chúng ta thì thật
sự là sự không hiểu biết; và sự hiểu biết chân
thật chỉ đạt được bởi sự lột bỏ tất cả những
điều này cho đến khi chúng ta suy nghĩ mà không
dùng các ý tưởng của giác quan"… "Chân lý
không phụ thuộc vào những vấn đề bên ngoài chúng
ta mà chính ngay trong chúng ta. Chúng ta không
thể hy vọng tìm thấy chân lý bằng kinh nghiệm,
bằng nhận thức giác quan hoặc ngay cả bằng những
lô-gích và lý lẽ. Có nhiều phương tiện để đạt
được kiến thức nhưng đó chưa phải bằng nhận thức
là chân lý. Chân lý phải thực sự đến từ sự nhận
thức nội tại. Sách vở chỉ có thể khơi dậy tư
tưởng và cho bạn kiến thức. Ðối với chân lý, bạn
phải quay mắt nhìn vào trong chính bạn. Vì vậy
việc nghiên cứu kiến thức là một điều và nghiên
cứu chân lý là một điều khác"… "Lời nói
là sản phẩm của tâm hạn chế của chúng ta và tâm
của chúng ta phụ thuộc tất cả kiến thức dựa trên
kinh nghiệm của các giác quan của chúng ta. Ðôi
khi các giác quan này không đáng tin cậy. Một
việc xảy ra được nhiều người thấy thì có thể
được giải thích trong nhiều cách khác nhau"…
Một số người tự
hào về sự việc mà họ biết rất nhiều. Thật tế là
chúng ta biết càng ít thì chúng ta càng có nhiều
sự giải thích, chúng ta càng biết nhiều thì
chúng ta càng nhận biết nhiều hạn chế của chúng
ta. Một học giả thông thái, khi viết xong một
tác phẩm được xem là kiệt tác. Vị đó cảm thấy
rằng tác phẩm này đã chứa đựng tất cả tinh túy
văn học và triết học. Bởi lòng tự hào về sự đạt
được của mình, người đó đã phô trương kiệt tác
của mình đến một đồng nghiệp - người có trình độ
kiến thức ngang hàng - với lời đề nghị rằng xin
đánh giá chất lượng của tác phẩm này. Thay vì
vậy, vị đồng nghiệp của vị này lại yêu cầu tác
giả ghi trên một mẫu giấy tất cả những gì vị này
đã biết và tất cả những gì đã không biết. Tác
giả đắm chìm trong suy tư và sau một hồi lâu
không thể viết ra được những điều nào mà mình đã
biết cả. Rồi tới vấn đề thứ hai, vị ấy cũng
không thể viết ra được tất cả những điều gì mà
mình đã không biết. Cuối cùng trong bước cùng
cực nhất, vị đó đã xuôi tay chịu thua và mới
nhận thức ra rằng tất cả những gì anh ta đã biết
đều thật sự là không biết.
Cùng với
quan điểm này, Socrates, một triết gia nổi tiếng
Athen của thế giới cổ đại, khi được hỏi những gì
ông ta biết, ông ta chỉ trả lời rằng: "Tôi
biết chỉ có một điều - là tôi không biết".
4. Vượt Trên Khoa
Học
Phật giáo vượt
trên khoa học hiện đại trong sự chấp nhận lãnh
vực kiến thức rộng lớn hơn tinh thần khoa học.
Phật giáo thừa nhận kiến thức xuất phát từ các
giác quan cũng như những kinh nghiệm cá nhân đã
được ngang qua sự tu dưỡng tâm. Bởi việc phát
triển và tu tập tâm định tĩnh cao, thì thực
nghiệm tôn giáo có thể được hiểu và được thực
hiện. Sự chứng nghiệm không phải là một điều có
thể hiểu được bởi hành động thí nghiệm hoặc thẩm
sát qua kính hiển vi.
Chân lý do khoa
học khám phá chỉ tương đối và chịu sự biến đổi,
trong khi chân lý do Ðức Phật tìm thấy là tuyệt
đối và rốt ráo: chân lý của các pháp không thay
đổi theo thời gian và không gian. Hơn nữa, ngược
lại với các lý thuyết khoa học, Ðức Phật khuyến
khích người có trí thì không nên bám víu vào các
học thuyết, khoa học và những điều khác. Thay vì
học thuyết, Ðức Phật dạy con người cách để sống
đời sống chân chính bằng sự thanh tịnh các căn
và loại bỏ tham muốn, Ðức Phật chỉ ra con đường
qua đó chúng ta có thể nhận ra trong chính mình
bản chất cuộc đời. Mục đích thật sự của cuộc đời
có thể được tìm thấy.
Trong
Phật giáo, việc tu tập là quan trọng.
Một người học
nhiều nhưng không thực tập giống như người nói
phương pháp nấu nướng từ một cẩm nang dạy nấu
nướng đồ sộ mà không cố gắng để chuẩn bị nấu một
món ăn thì cuốn sách cẩm nang không thể làm giảm
cơn đói bụng được. Cũng thế, thực hành là điều
kiện tiên quyết quan trọng trong việc giác ngộ
mà trong vài trường phái Phật giáo như “Zen” (Thiền)
đã nâng cao việc tu tập thiền định thậm chí được
đặt ở hàng đầu.
Phương pháp khoa
học có khuynh hướng hướng ngoại và các nhà khoa
học hiện đại đã khai thác bản chất và các yếu tố
tiện nghi cho riêng họ, nhưng lại thường không
xem xét nhu cầu để hòa hợp với môi trường và do
đó thế giới xung quanh bị ô nhiễm. Trái lại,
Phật giáo hướng nội và liên quan tới sự phát
triển nội tại của con người. Ở phương diện thấp
hơn, Phật giáo dạy con người cách để điều chỉnh
và đối phó với các sự kiện và hoàn cảnh của đời
sống hằng ngày. Ở mức độ cao hơn, Phật giáo
trình bày sự tự nỗ lực của con người phát triển
vươn lên thông qua việc tu tập và trau dồi tâm.
Phật giáo có một
hệ thống tu tập tâm hoàn hảo liên quan tới việc
đạt trí tuệ trong bản chất các pháp để đưa đến
sự giải thoát tối thượng - Niết bàn. Hệ thống
này vừa thực tiễn, vừa khoa học. Nó bao hàm sự
quán sát khách quan về các trạng thái tâm lý và
tình cảm. Hơn một nhà khoa học, người tu học
Phật như là một vị thẩm phán, một thiền giả quán
sát thế giới nội tâm chính mình với chánh niệm.
5. Khoa Học Không
Có Tôn Giáo
Nếu không
có lý tưởng đạo đức thì khoa học sẽ đem đến sự
nguy hiểm cho toàn thể nhân loại. Khoa học chế
tạo máy móc và máy móc lần lượt trở thành chúa
tể. Bom đạn là quà tặng của khoa học cho một
thiểu số người có uy quyền sẽ điều khiển vận
mạng của thế giới. Trong khi phần đông nhân loại
lại chờ đợi trong nổi khổ đau, sợ hãi, không
biết khi nào vũ khí nguyên tử, chất độc hóa học,
vũ khí giết người - kết quả của các nghiên cứu
khoa học để giết người có hiệu quả hơn - sẽ được
sử dụng đến. Khoa học hoàn toàn không những
không thể hướng dẫn đạo đức cho nhân loại mà còn
nuôi dưỡng nhiên liệu để thổi bùng ngọn lửa khát
vọng của con người.
Sự trống
rỗng đạo đức của khoa học báo hiệu duy nhất một
điều là sự hủy hoại: nó trở thành con quái vật
tàn bạo mà con người đã tạo ra. Bất hạnh thay!
Chính con quái vật trở nên mạnh mẽ hơn con người
đã tạo nên nó. Trừ phi con người biết chế ngự và
cai quản quái vật này ngang qua việc thực tập
đạo đức tôn giáo thì con quái vật sẽ sớm khuất
phục con người. Nếu không có sự hướng dẫn của
tôn giáo thì khoa học đe dọa thế giới với sự hủy
diệt. Trái lại, nếu khoa học song hành với tôn
giáo như Phật giáo thì có thể biến đổi thế giới
này thành thiên đường, hòa bình, an ổn và hạnh
phúc.
Chưa bao giờ sự
đồng hành giữa khoa học và tôn giáo lại rất cần
cho phúc lợi nhất của con người và cần phục vụ
cho con người như lúc này. Chúng như cần phải đi
song song với nhau. Tôn giáo mà không có khoa
học là mù, khoa học mà không có tôn giáo thì như
bị què.
6. Cống Hiến Cho
Phật Giáo
Trí tuệ Phật giáo
thiết lập trên từ bi có vai trò quan trọng đến
sự điều chỉnh sự nguy hiểm mà khoa học đang
hướng đến. Phật giáo có thể cung cấp khả năng
lãnh đạo tinh thần để hướng dẫn sự nghiên cứu và
phát minh khoa học trong việc khuyến khích sự
trau giồi nền văn minh sáng chói trong tương lai.
Phật giáo có thể cung ứng các mục tiêu xứng đáng
cho sự tiến bộ khoa học mà nó đương đầu với bế
tắc vô vọng của việc bị nô lệ bởi chính sự phát
minh của nó.
Nhà đại bác học
Albert Enstein đã ngỏ lời khen ngợi sự đóng góp
của Phật giáo khi ông nói: "Nếu
có bất kỳ tôn giáo nào mà tôn giáo đó đáp ứng
với nhu cầu khoa học hiện đại thì tôn giáo đó sẽ
là Phật giáo". Phật giáo không có từ bỏ
quan điểm của mình để theo khoa học bởi vì Phật
giáo đã hàm chứa khoa học đồng thời vượt lên
khoa học. Phật giáo là cầu nối giữa tư tưởng tôn
giáo và khoa học bởi việc khuyến khích con người
khám phá những tiềm năng tiềm tàng trong chính
mình và môi trường chung quanh. Phật giáo là mãi
mãi!
K. Sri Dhammananda
Diệu Hương
chuyển ngữ
---------------
[Dịch từ nguyên tác tiếng
Anh "Religion in a scientific age" của Ðại lão
Hòa thượng K. Sri Dhammananda, trong tác phẩm "Các
Viên Ngọc Trí Tuệ của Phật Giáo" (Gems of
Buddhist Wisdom), CBBEF, Taiwan, 1997, trang
473-483]


|