PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG
MỘT ĐỜI BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC -
MỘT THƯỞ TINH TẤN TU TRÌ
Trúc Lâm Lê An Bình
biên khảo
Kính dâng khánh
đản 751 năm của Đức Điều Ngự Giác Hoàng
1258-2009!
Kinh Thủ Lăng
Nghiêm có câu như sau: “Thuấn nhã đa tánh khả
tiêu vong, Thước ca-ra tâm vô động chuyển”.
Ý nghĩa tinh túy
này đã được vua Trần Nhân Tông thể hiện qua nếp
sống đời đạo vẹn toàn của Ngài trong mấy mươi
năm lo toan việc nước cũng như hành trì thiền
định cho bản thân. Vì vậy khi Ngài đản sanh vào
ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258), niên hiệu
Nguyên Phong thứ 8 (1258) khí chất Ngài đã khác
biệt rất nhiều so với những bậc vương giả đồng
lứa. Năm 16 tuổi được lập làm thái tử. Năm lên
21 tuổi, được thượng hoàng Thánh Tông truyền
ngôi và lấy niên hiệu là Thiệu Bảo Nguyên Niên
cũng gọi là Trùng Hưng năm 1279. Tôn danh của
Ngài là Khâm tức Trần Nhân Tông. Tuy vinh hoa
cùng tột, nhưng vua vẫn sống trong thanh tịnh,
ban ngày cùng triều thần bàn việc nước trong
hoàng cung, đêm về nghĩ chùa Tư Phúc ở nội thành
và đó cho chúng ta cảm nhận được Thước ca-ra tâm
vô động chuyển. Ngoài ra ở nơi Ngài còn thể hiện
một trong những đức tánh của bậc quân tử là Phú
quý bất năng dâm. Chữ dâm ở đây xin được hiểu ở
nghĩa rộng là si mê những danh vọng, lợi dưỡng
của thế gian.
Có lúc ngủ mộng
thấy ở trên rốn nở hoa sen vàng lớn như bánh xe,
trên hoa hiện vị Phật vàng, bên cạnh có người
chỉ vào vua mà bảo: “Có biết vị Phật này không?
Đấy là vị Phật chí tôn chiếu khắp!”. Giật mình
tỉnh dậy, đem mộng bẩm lên, vua cha Thánh Tông
càng lấy làm lạ. Từ đấy nhà vua thường ăn chay
tịnh không dùng món ăn mặn, người xanh xao gầy
yếu. Thánh Tông lấy làm lạ hỏi, vua nói lý do.
Thánh Tông khóc mà bảo rằng: “Ta nay đã già yếu,
cậy vào có một mình con, nếu con như thế này thì
sự nghiệp của tổ tông còn ra sao?”. Vì chữ hiếu
Ngài đã theo lời vua cha dạy làm một vị vua tốt,
tốt với bản thân (bằng sự tu tâm dưỡng tánh),
tốt với bá tánh (bằng sự cai trị lấy nhân đức
làm đầu).

Nhà Nguyên nghe
tin Thái tổ nhà Trần vua Thái Tông băng hà năm
Bảo Phù thứ 5 (1277), họ liền tìm đủ cách để xâm
lấn Đại Việt do vua Trần Nhân Tông lãnh đạo. Hốt
Tất Liệt áp dụng từ chính sách răn đe như mượn
đường của Đại Việt để tấn công Chiêm Thành (thực
ra là xâm chiếm Đại Việt) đến vuốt ve chiêu dụ
như sai sứ gỉa là Sài Thung nghêng ngang sang
nước ta bằng đường đến từ Ung Châu thay vì Thiện
Xiển, Vân Nam mà các phái đoàn ngoại giao của
Tàu vẫn sử dụng trước đây; lời lẽ văn thư của
nhà Nguyên ngày càng cứng rắn, kêu ngạo, nhưng
vua Nhân Tông vẫn một mực đối đáp và hành xử hòa
nhã biểu hiện tinh thần văn hiến chi bang.
Trường hợp mở tiệc tiếp sứ nhà Nguyên ở điện Tập
Hiền, Ngài vẫn giữ cung cách ngoại giao để tiếp
đãi sứ Mông cổ kênh kiệu ngạo mạn.
Tháng 11 năm
1279, họ còn đi hỏi nước ta phải cống người vàng
cùng ngọc trai, cùng với những nhà trí thức cũng
như các tay thợ lành nghề mỗi hạng hai người,
nếu không đáp ứng được những điều kiện này thì
đất nước ta phải bị dày xéo dưới gót giày xâm
lược của quân Mông cổ. Cho dù bị áp lực ra sao,
Ngài vẫn kiên trì giữ vững tinh thần, một mặt
giữ gìn thể diện đất nước và dân tộc, mặt khác
tích cực chuẩn bị ứng chiến trong bất kỳ tình
huống nào. Đó là về ngoại giao.
Còn nội trị, Ngài
ban lệnh ân xá lớn cho cả nước ngày 1 tháng 1
năm 1279; Chiêu hàng Trịnh Giác Mật ở đạo Ðà
Giang không tốn một binh sĩ; 1280 kiểm kê dân số
trong nước (lập sổ dân đinh) để nắm vững nhân
lực nước ta; phục chức Trần Khánh Dư làm Phó đô
tướng quân, phong Trần Hưng Đạo làm Quốc Công
Tiết Chế; triệu tập quân dân cả nước ở hai hội
nghị Bình Than và Diên Hồng để quy tụ lòng người
vào trận chiến vệ quốc sắp nổ ra.
Ngày 21 tháng 12
năm Giáp Tý (1284) chiến tranh bùng nổ, quân
Mông-cổ do Thoát Hoan cầm đầu đã tràn xuống tới
biên giới của nước ta. Thượng hoàng Thánh Tông
và vua Nhân Tông luôn hiện diện ở tuyến đầu,
chung vai sát cánh với các tầng lớp quân dân Đại
Việt chống quân xâm lăng Mông cổ. Cả hai cuộc
chiến 1284 và 1288 vô cùng gian nan cực khổ; có
lần quân Mông cổ do Ô Mã Nhi chỉ huy truy đuổi
hai vua thật gắt, nhưng vẫn không bắt được hai
Ngài, khi họ tràn quân ngang Thái miếu của Vua
Trần Thái Tông, hắn cho binh sĩ tàn phá lăng
miếu này. Sau khi quân Đại Việt toàn thắng đẩy
lui giặc ngoại xâm, vua Nhân Tông nhìn thấy cảnh
hoang tàn đỗ vở của Thái miếu, Ngài cảm khái
thốt lên hai câu thơ:
Xã tắc lưỡng hồi
lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ
điện kim âu
Nghĩa:
Đất nước hai phen
mệt ngựa đá
Sông núi bền vững
đến ngàn sau
Khi tuổi quá tứ
tuần nhận thấy quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu
biên giới, bởi vậy năm 1290 đức vua phải thân
chinh đi đánh dẹp.
Mùa xuân, tháng
3, ngày mồng 9 năm 1293, vua Nhân Tông nhường
ngôi cho Hoàng thái tử Thuyên. Hoàng thái tử
Thuyên lên ngôi hoàng đế, tức là vua Trần Anh
Tông. Sau đó Ngài xuất gia, niên hiệu Hưng Long
thứ 12 (1304) Ngài lấy đạo hiệu là Trúc Lâm Ðầu
Ðà Ðiều Ngự Giác Hoàng rồi cùng đệ tử là tôn giả
Pháp Loa và mười người đệ tử đi về khắp nẻo làng
quê giảng pháp, hướng dẫn dân chúng làm lành
lánh dữ tu theo mười điều thiện cũng như phá bỏ
các nơi thờ cúng mê tín dị đoan.
Cuối năm 1304,
vua Anh Tông cung thỉnh Giác Hoàng về kinh thành
Thăng Long để thọ giới Bồ Tát tại gia. Năm 1306,
Ngài vào tu trong am Ngọc Vân, lấy pháp hiệu là
Trúc Lâm Ðại Sĩ. Niên hiệu Hưng Long thứ 16
(1308), ngày 1 tháng giêng năm Mậu Thân, Giác
Hoàng chính thức ủy thác tôn giả Pháp Loa đảm
nhiệm phần vụ trụ trì chùa Báo Ân ở Siêu Loại (Bắc
Ninh). Tháng 4 đích thân tới chùa Vĩnh Nghiêm ở
Lạng Giang (Bắc Giang) chủ trì giảng Truyền Ðăng
Lục, quốc sư Ðạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa cho
chư Tăng kiết hạ tại đây.
Sau ngày lễ ra hạ,
Ngài trở lại núi Yên Tử và đi thăm khắp các hang
động, khi quá mệt, vào trong Thạch Thất nghỉ
chân. Pháp Loa tôn giả bạch rằng: “Tôn Ðức
xuân thu đã cao, mà xông pha mưa nắng lỡ có mệnh
hệ gì thì mạng mạch chánh pháp biết nương tựa
vào đâu?”. Trước khi viên tịch Ngài để lại
bài kệ như sau:
“Thế số nhất
tức mặc
Thời tình lưỡng
hải ngân
Ma cung hồn quản
thậm
Phật quốc bất
thăng xuân".
Nghĩa:
Mạng người một
hơi thở
Thói đời buồn hai
mắt
Cung ma lắm ưu
phiền
Nước Phật còn vui
hơn
Ngài là vị tổ sư
sáng lập dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng
thiền hoàn toàn của tộc Việt, các tác phẩm của
Ngài Điều Ngự bao gồm: “Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ
Lục”, “Hậu Lục”, “Đại Hương Hải Ấn Thi Tập”,
“Tăng-già Toái Sự” và “Thạch Thất Mị Ngữ”…
Bốn tác phẩm đầu
được truyền bá rộng rãi, còn tác phẩm thứ năm
vua Anh Tông cho chép vào Đại Tạng Kinh. Một
điều đáng tiếc là những tác phẩm trên đây mất
mát gần hết, người đời sau chỉ còn tìm lại được
28 bài thơ chữ Hán, và Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ
lục, cũng như hai bài văn Nôm là Cư trần lạc đạo
phú và Đắc thú Lâm Tuyền thành đạo ca.
Những tác phẩm
văn thư nêu trên biểu hiện tư tưởng cũng như
cách sống, sự chứng ngộ về thiền của Ngài. Điều
quan trọng hơn hết, cuộc đời của Ngài từ khi làm
vua đến lúc cầm gươm đánh giặc rồi bỏ hết tất cả
xuất gia tu hành đã thể hiện một cách rõ rệt
nhất lý tưởng Bồ tát và lý tưởng quân tử của nền
Tam giáo đồng nguyên đang thịnh hành thời bấy
giờ.
Ngài đã đi trọn
con đường của bậc Bồ tát và làm đầy đủ bổn phận
của một người quân tử trong thời chiến cũng như
thời bình, tấm gương chói ngời này là điều mà
người đời sau cần suy gẫm và noi theo trong thế
cuộc vệ quốc hộ đạo trước sự bành trướng ngày
càng rõ rệt của bọn giặc xâm lược phương Bắc.
Nam Mô Lịch Đại
Tổ Sư Bồ Tát
Nam Mô Trúc Lâm
Yên Tử Điều Ngự Giác Hoàng Tổ Sư tác đại chứng
minh
Trúc
Lâm - Lê An Bình


|