Tất Cả Chúng Ta Đều Phải
“Trở Về Nhà”
Nguyễn Điệp Hoa
Khoảng những
năm 1995 -1998, những người quan tâm và tìm kiếm
về tâm linh bắt đầu đưa cho nhau đọc những bản
copy không rõ ai dịch, không rõ từ đâu, nhưng
những lời lẽ trong cuốn sách đầy mê lực và có
sức thức tỉnh lòng người vô cùng mạnh mẽ. Cái
tên Osho được biết đến có lẽ từ đó, hay từ trước
đó một chút nữa ở Việt Nam. Rất ít người khi đó
biết được rằng con người vĩ đại và đầy phi
thường chỉ mới qua đời năm 1990. Ông gần như
sống cùng thời đại với chúng ta, tiếc rằng, chỉ
gần đây, khi hàng chục cuốn sách của Osho được
dịch và giới thiệu ở Việt Nam thì chúng ta cũng
mới biết nhiều đến ông với những tư tưởng vĩ đại
và đặc sắc.

Osho -
Rajneesh Chandra Mohan Jain (1931 -
1990)
Osho tên thật là
Rajneesh Chandra, sinh năm 1931 tại một ngôi
làng nhỏ ở miền trung Ấn Độ. Ông được coi là một
trong những đại diện tư tưởng xuất sắc nhất mọi
thời đại. Có những đánh giá nói rằng Đức Phật đã
trở lại Trái đất sau 25 thế kỷ qua ông, rằng ông
là một kẻ “nổi loạn” và là kẻ “nguy hiểm nhất”
chỉ sau Jesus.
Nhân loại vừa yêu
ông, vừa sợ ông. Ông giống như ánh hào quang làm
hoảng sợ và chói mắt những kẻ nô dịch người khác
bằng mọi tư tưởng và luận thuyết cứng nhắc, giáo
điều, nhưng bản thân lại đầy ý thức nô lệ. Mục
đích của các thông điệp của ông là nhằm đánh
thức nhân loại đang trong cơn mê của những sự
nhầm lẫn căn bản nhất về ý nghĩa của sự tồn tại
của con người. Sự xuất hiện của Osho và tư tưởng
của ông giống như một dự báo về một nhân loại
mới, về một thời đại mới mà ở đó, tất yếu con
người phải “trở về”, phải tìm thấy sự hợp nhất
với hiện hữu, với chân lý. Osho dường như đã
xuất hiện như một người thầy dẫn đường.
Osho có nét của
một nhà truyền giáo, nhưng bản thân ông không
theo một tôn giáo nào. Khi còn nhỏ, 7 năm đầu
đời, ông sống với ông bà ngoại và không hề đến
một trường lớp nào. Nhưng chính trong một môi
trường “vô giáo dục” như thế – điều được ông coi
là một phúc lành, một tư tưởng vĩ đại nhất đã
chạm đến tâm hồn còn như một trang giấy mới
trắng tinh của cậu bé Rajneesh Chandra: “Tôi
đảnh lễ dưới chân những ai đã biết chính mình…”
qua bà ngoại của cậu, một phụ nữ chân quê, thất
học, nhưng đầy sáng suốt.
Toàn bộ tư tưởng
của Osho đều được xoay quanh điều quan trọng
nhất này: Biết chính mình. Ông nói: “Tính tâm
linh, đối với tôi, đơn giản chỉ có nghĩa là phát
hiện chính mình”.
Osho dành cả đời
mình để chỉ làm một việc: Giúp mọi người, và về
sau là giúp “những kẻ tìm kiếm” phát hiện chính
mình. Đây cũng chính là hạt nhân trong tư tưởng
của ông. “Biết chính mình”, hay biết “tôi là ai”
là câu hỏi của bản thân mỗi người và họ phải tự
đi con đường của mình để trả lời câu hỏi này.
Câu hỏi đơn giản, nhưng quan trọng nhất này cũng
là câu hỏi khó nhất bởi vì nó chạm tới bản thể.
Trả lời câu hỏi này đòi hỏi cả một hành trình
dài đằng đẵng, nhiều kiếp, bởi vì đơn giản là
qua quá nhiều triệu kiếp, con người đã đi sai
đường. Thay vì đi vào trung tâm, nó ngày càng đi
ra ngoại vi. Một trong những sai lầm lớn nhất
của con người, theo Osho, là nhầm lẫn về thể xác
và tâm trí. “Bạn không phải là tâm trí bạn, bạn
cũng không phải thân thể bạn”, ông nói. Vì thế,
ông hướng dẫn đầu tiên bạn phải học nhận ra cơ
thể bạn không phải bạn, rồi sau đó, mới đến tâm
trí. Thể xác và tâm trí sẽ mất đi, nhưng bạn thì
vĩnh cửu. Vì vậy, cái vĩnh cửu này, hay cái bản
thể, hay chân lý phải được tìm ra, hay nói khác
đi, "bạn phải trở về nhà”. Một khi trở về, bạn
nhận ra mình là một phần của cái toàn thể, bạn
là một với hiện hữu, bạn đã tìm thấy “Chân Như”
hay Thượng đế.
Triết
học của Osho không phải là để nghiền ngẫm mà để
thực hành. Để “trở về”, Thiền định là phương
tiện chính, là then chốt. Ông nói: “Thiền định
không là gì khác ngoài sự rút lui của mọi loại
rào chắn – những tư tưởng, cảm xúc, tình cảm –
những cái tạo ra bức tường giữa bạn và hiện hữu.
Cái khoảnh khắc chúng rơi rụng đi, bạn đột nhiên
tìm thấy chính mình hòa điệu với cái toàn bộ.
Không chỉ hòa điệu, bạn thực sự là một với cái
toàn bộ”. Osho đưa ra 112 phương pháp thiền,
trong đó thiền động được coi là một phương pháp
hết sức độc đáo. Nguyên lý của thiền động đơn
giản là bạn phải tập trung vận động điên cuồng
trong một thời gian ngắn để tống hết tất cả
những rác rưởi dồn ứ trong bạn, những lo âu,
phiền muộn, âm mưu, hằn thù, oán giận, căng
thẳng … ra ngoài, rồi sau đó bạn mới có thể
tĩnh lặng.
Nơi chứa chấp tất
cả những rác rưởi, tạo thành lớp lớp rào cản,
như những đám mây dày đặc che kín bầu trời này,
chính là tâm trí con người. Ở đây, bạn phải học
để nhận ra tâm trí bạn chẳng phải cái gì khác mà
chính là cái bản ngã, được làm nên bởi những rác
rưởi, dục vọng, ham muốn của con người. Cả những
cái gọi là “tri thức”, hãy tự hỏi xem, có cái gì
từ bạn mà ra không, hay nó là từ ngoài đi vào?
Nếu bạn có tri thức, bạn sẽ chỉ là học giả,
nhưng bạn sẽ mãi mãi không là một người thông
minh và trí tuệ, bởi vì sự sáng suốt, trí tuệ
thật sự là cái đi từ bên trong ra. Chỉ khi nào
những đám mây dày đặc của những cái không phải
của bạn, không phải là bạn, tan đi thì mặt trời
mới hé rạng, giọt nước đã hòa vào đại dương, bạn
mới tìm thấy mình; hay chỉ khi bạn từ chối chính
bạn, khi bạn biến đi, thì hiện hữu lao về phía
bạn, đi vào bạn - theo diễn đạt của Osho.
Khi đám mây tan
đi, bạn mới thấy được sự thật. Một ví dụ để hiểu
cái nhìn của ông: “Ông là ai?” – câu hỏi của một
nhà báo. Trả lời: Nếu bạn không nhìn tôi với sự
trống rỗng trong bạn thì câu trả lời của tôi cho
bạn là vô ích. Nó sẽ chỉ là sự phản ánh chính
bạn thôi. Bạn soi tôi để thấy chính bạn thôi,
chứ không thấy tôi. Nếu tôi trống rỗng, bạn
trống rỗng thì đó sẽ là hai tấm gương soi vào
nhau và chúng ta sẽ thấy nhau.
Từ nguyên lý nhất
thể xem con nguời là một phần hợp nhất với hiện
hữu, Osho đã xem xét và thuyết giảng về những
vấn đề căn bản liên quan tới tâm linh như sự
sống, cái chết, sự bất tử, tự do, tình yêu, tình
dục… và rất nhiều vấn đề xã hội khác, từ đó ông
hướng dẫn các giá trị sống đích thực cho con
người. Mặc dù tiếp thu rất nhiều giá trị tư
tưởng, văn hóa và tôn giáo Ấn Độ, Osho không
theo một tôn giáo nào.
Ông
không chia
sẻ các quan niệm về sự tồn tại của Thượng đế,
hay Đấng sáng tạo. Ông dùng các từ ngữ “Thượng
đế”, “tôn giáo”… chỉ để tải các tư tưởng của
chính ông. Một trong những điểm ông phê phán
mạnh mẽ nhất ở các tôn giáo là con người thường
bị xem như kẻ tội lỗi và vì thế phải được dẫn
dắt để gột sạch tội lỗi trong kiếp sống này. Ông
phê phán gay gắt việc nhiều tôn giáo coi cuộc
sống trên trái đất chỉ là nơi chuẩn bị cho một
thế giới khác sau cái chết. Tinh thần của Osho
hoàn toàn ngược lại. Ông coi cuộc sống là một
trải nghiệm quý giá, một cơ hội, một lễ hội, con
người phải hân hoan, vui sống. Khi bạn hết lòng
với giây phút hiện tại, quá khứ và tương lai
không còn chỗ trong tâm trí bạn. Nó không có khả
năng dựng rào cản trong tâm trí bạn nữa. Cuộc
sống là ở đây, giây phút này. Những lớp học
thiền định của Osho duy nhất là nơi học viên
được vui chơi, nhảy múa, ca hát, tràn đầy âm
nhạc, vũ điệu, hoan hỉ… trước khi đi vào
tĩnh lặng.
Tìm ra chính mình,
con người cũng sẽ cảm nhận được Thượng đế trong
bản thân mình, hay nói theo Osho, đó là tính tôn
giáo, tính Thượng đế. Với Osho, không có Thượng
đế, chỉ có tính Thượng đế, không có tôn giáo,
chỉ có tính tôn giáo.
Một trong những
vấn đề căn bản Osho bàn tới – đó là tự do. Tự do
trong tư tưởng của ông về cơ bản là tự do thoát
khỏi cái “tôi”. Cái “tôi” hay bản ngã chính là
cái tạo ra xiềng xích. Một khi thoát khỏi cái “tôi”,
con người mới thực sự có tự do, và nhờ đó tràn
đầy tình yêu. Nên, xem xét tự do với Osho cũng
đồng thời là xem xét tình yêu đích thực là gì.
Theo Osho, tình yêu không phải là cái đến ở bên
ngoài, không phải là cái ta đòi hỏi được và xin
được. Tình yêu là kho báu, là suối nguồn từ bên
trong của mỗi con người. Nhưng kho báu này bị
che giâú bởi cái “tôi”, bởi bản ngã của con
người.
Khốn
thay, chúng ta luôn nghĩ rằng chúng ta biết về
tình yêu. Một khi nghĩ rằng mình biết rồi, ta
không đi tìm nó nữa. Nên Osho dạy rằng trước
tiên phải hiểu là ta chẳng biết gì về tình yêu
cả. (Có ai trong chúng ta đủ ý dũng cảm để nói
rằng tôi chẳng biết gì về tình yêu?) Chỉ những
người đã vượt qua khỏi sự cần thiết phải đòi hỏi
tình yêu mới bắt đầu đi trên con đường tình yêu
đích thực – con đường cho đi tình yêu. “Tình yêu
nghĩa là cho đi, nó không hề biết gì về đòi
hỏi”, rằng "Tình yêu mà đòi hỏi thì không phải
là tình yêu”, “Tình yêu chỉ tìm đến cánh cửa mà
sự thèm muốn đã biến mất”.
Tình yêu
là âm nhạc nội tại con người của bạn, là sự nở
hoa bên trong. Nhưng, sự nở hoa sẽ không thể
diễn ra bởi cái “tôi”. Chừng nào trong mỗi con
người còn tràn đầy tiếng ồn của cái “tôi” thì
chừng đó tình yêu còn không thể hiển lộ. Ánh
sáng và bóng tối không thể tồn tại cùng nhau.
Theo cùng cách ấy, tình yêu và bản ngã không thể
tồn tại cùng nhau. Vì bên trong ta không có tình
yêu nên cái “tôi” vẫn liên tục vang lên. Nên kẻ
nào có cái ngã toàn bộ, tình yêu sẽ chết hoàn
toàn trong hắn. Bạn cũng có thể nói bản ngã cũng
yêu, nhưng tình yêu xuất phát từ bản ngã là tình
yêu giả tạo, nó sẽ sớm trở thành xiềng xích – bộ
mặt thật của nó. Nó là mưu mẹo về sự sở hữu.
Một lần nữa, Osho
nhất quán với tư tưởng hạt nhân của ông về “trở
thành chính mình” khi ông tuyên bố: “Chẳng ai có
thể tìm kiếm được cái thiêng liêng siêu phàm bởi
vì hắn không có khả năng như thế. Nhưng đến khi
có người nào đó trở nên sẵn sàng biến mất, đã
trở nên sẵn sàng chẳng là gì cả, sẵn sàng biến
thành cái không, thế thì cái thiêng liêng, siêu
phàm chắc chắn sẽ tìm đến hắn. Chỉ có cái thiêng
liêng là có thể tìm kiếm con người, con người
không bao giờ có thể tìm kiếm cái thiêng liêng
ấy, bởi ngay khi tìm kiếm thì bản ngã đã có mặt…”.
Chỉ “Cái ngày mà hắn không tồn tại, ngày đó cánh
cửa che dấu tình yêu sẽ mở ra cho hắn”. Vậy thì
cái bản ngã, cái “tôi” ấy là cái gì, nó ở đâu,
và nó là ai.
Theo Osho, “tên”
(như Hùng, Hiền chẳng hạn) và “tôi” – đó chẳng
qua là những tiện ích xã hội để phân biệt bạn
với người khác, nó chỉ mang chức năng nhãn hiệu,
là hai mặt của đồng tiền. Tên để thấy được từ
bên ngoài, và "tôi’’ thấy được từ bên trong.
Nhưng nhầm lẫn đã dẫn đến ảo tưởng về giá trị
của tên và “tôi”. Bao lâu cái ảo tưởng này còn
tồn tại thì không gian dành cho tình yêu vẫn
không được mở ra. Như vậy, suy cho cùng, tình
yêu cũng là một hình thức của ý thức về bản thể,
về nhất thể, về bản tính vũ trụ, bản tính Thượng
đế của con người. Tình yêu chỉ có toàn bộ khi
con người phát hiện ra chính mình.
Một
trong những quan niệm đặc sắc của Osho là về
tình dục. Đó là lĩnh vực hầu hết mọi tôn giáo,
mọi xã hội đều né tránh. Chính sự né tránh này
đã dẫn đến sự kìm nén tình dục và đây là nguồn
gốc dẫn đến những nhận thức méo mó, sai lệch về
nó. Vượt qua những sự méo mó này, Osho đã xem
xét vấn đề tình dục một cách toàn diện, sâu sắc
và mới mẻ. Theo ông, vì đây là nguồn sinh lực tự
nhiên của con người nên nếu bị đè nén, như dòng
sông, nó tất sẽ bị lệch dòng. Tình dục là nấc
thang thấp nhất của quá trình tìm ra chính mình.
Bạn có thể cảm nhận khoảng khắc phi ngã, phi
thời gian, khi đạt tới đỉnh điểm của khoái cảm.
Nếu bạn ý thức và quan sát được giây phút này,
bạn sẽ thoát khỏi tình dục.
Ba cấp
độ của tình dục, theo Osho, là tình dục gắn với
thể xác, tình dục gắn với tình yêu và tình dục
gắn với thiền. Tình dục gắn với thể xác là khi
con người bất hạnh và chạy trốn – nó tìm đến
tình dục. Tình dục và tình yêu là mức độ cao hơn
của sự hòa hợp hai tâm hồn. Ở đây, ngay cả trong
hôn nhân, Osho quan niệm rằng nếu một người sử
dụng người kia, ham muốn thân xác mà không có
tình yêu thì cũng chẳng khác gì mại dâm. Tình
dục ở cấp độ ba là tình dục và thiền – một cánh
cửa hé mở, một tia chớp lóe lên khi đột nhiên
bản ngã biến mất, thời gian biến mất. Càng thỏa
mãn bao nhiêu, con người ở cấp độ này càng sớm
rời bỏ tình dục bấy nhiêu để đi đến một nấc
thang cao hơn của hành trình tâm linh.
Theo
cách này, Osho dự đoán nhân loại sẽ phát triển
đến giai đoạn con người “đủ” tình dục, nó sẽ từ
bỏ và sẽ dẫn tới tình trạng độc thân. Nhân loại
mới sẽ dần dần không ra đời theo quan hệ tình
dục nam nữ nữa, mà theo một cách khác. Osho bị
phê phán và chỉ trích dữ dội từ phía các nhà
lãnh đạo tôn giáo, chính trị, văn hóa… vì những
luận điểm của ông về tình dục, nhưng thế kỷ
21 đang hé lộ rằng những dự đoán của ông đang
thành hiện thực.
Tuy đưa ra rất
nhiều thông điệp và lời chỉ dẫn, nhưng Osho thực
ra không viết sách. Toàn bộ mấy trăm tác phẩm
của ông là tập hợp của hàng nghìn các bài nói
chuyện đã nói ở khắp nơi trên thế giới và tại Ấn
Độ, trong đó mỗi câu ông nói, mỗi dòng được ghi
lại, đều chứa đựng thông tin. Hùng biện, giản dị
nhưng đầy cuốn hút và thông tin dày đặc – đó là
phong cách Osho. Bạn phải suy nghĩ trên mỗi dòng,
mỗi trang khi đọc ông. Lý do không viết gì của
Osho là ông không muốn mọi người bám lấy, hay
lụy vào những điều ông nói. Ông thuyết giảng,
nhưng ông nói ông không có học thuyết nào, triết
học nào, tôn giáo nào… Mỗi người là duy nhất và
họ phải trải qua hành trình của chính mình. Cũng
như Đức Phật, Ngài chỉ trăng thôi, mọi người
phải hướng đến mặt trăng mà quên ngón tay chỉ
trăng của Ngài.
Con đường
truyền thông cho loại “tôn giáo không có tôn
giáo” theo cách nói của ông là một con đường gập
ghềnh. Ông từng học triết, trở thành giáo sư đại
học, rồi trở thành một đạo sư lang thang. Ông đã
đi từ chứng ngộ cá nhân đến truyền đạt cho những
đám đông hàng chục nghìn người, rồi cuối cùng
chỉ dừng lại ở những nhóm nhỏ của những người mà
ông nhận ra họ đang thực sự tìm kiếm. Ông phản
đối việc thành lập một tổ chức, một tôn giáo sau
lưng ông. Ông từng được chào đón, nhưng cũng
từng bị xua đuổi ở nhiều quốc gia, kể cả Ấn Độ,
vì ông dám đặt những câu hỏi có sức công phá đến
tận gốc rễ và lật đổ những tà thuyết có sức sống
hàng nghìn năm, những truyền thống văn hóa hủ
bại, những sự dối trá, những sự nhầm lẫn ghê gớm
của loài người…
Ông thách thức
những nền tảng vững bền được bảo vệ bởi các thể
chế cùng vô số các nhà tư tưởng và tâm linh qua
hàng nghìn năm, và vì thế, nhiều kẻ muốn giết
ông như người ta đã đầu độc Socrate (nhà triết
học Hi Lạp cổ đại)… Ngay cả với Đức Phật, ông
cũng cương quyết từ chối “phải nằm nghiêng bên
phải, tay kê đầu” – thiền trong khi ngủ đêm - và
cầm bình bát khất thực. Cả cuộc đời của Osho là
một hành trình liên tục thực hành và thay đổi
cách làm, xuất phát từ một thời đại thay đổi
nhanh chóng và con người đã đạt tới tiện nghi
cao về vật chất, khoa học phát triển mạnh mẽ…
nhưng nhân loại ngày càng bế tắc hơn trong lĩnh
vực tinh thần.
Osho
từ biệt cõi đời nhẹ nhàng, từ chối cấp cứu. Cái
chết của ông được cho là do nguyên nhân bị đầu
độc bằng thallium, một chất hủy hoại hệ miễn
dịch, trong thời gian ông bị bắt vô cớ và bị
chuyển qua 6 nhà tù liên tiếp chỉ trong vòng 12
ngày tại Mỹ.
Điều
kỳ diệu là toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp đồ sộ
của con người vĩ đại này giúp chúng ta không
phải học hỏi về ông, mà là học hỏi về chính mình.
Nguyễn Điệp Hoa (theo
Hoa Linh Thoại)


|