Vũ Trụ Quan và Nhân Sinh
Quan của Phật Giáo
THỊ HOA
Từ sơ khai cho
đến thời kì xã hội văn minh của nhân loại mặc dù
tri thức của con người luôn phát triển rực rỡ,
nhưng con người vẫn chưa thể giải đáp rõ ràng
hai câu hỏi lớn: Vũ trụ là gì? Và con người từ
đâu mà có? Hai câu hỏi nan giải này luôn là
những thách thức, ám ảnh tâm thức con người.
Đã có biết bao
nhà tôn giáo, tư tưởng, triết gia, đạo sĩ… mài
mòn sách vở, dốc cạn tâm lực để mong mở được
cánh cửa chân lý, tìm hiểu tường tận về vũ trụ
và con người. Nhưng tất cả đều như những kẻ lữ
hành loanh quanh mãi trong rừng rậm của tri kiến,
vẫn không tìm được lối ra, chưa có những lời
giải đáp toàn hảo nhất.
Đức Phật, bậc Vô
thượng sĩ, nhà tư tưởng uyên thâm vĩ đại, sau
khi chứng ngộ dưới cội Bồ-đề đã như thật tri
kiến rằng:
“Cái này có
thì cái kia có
Cái này không
thì cái kia không.
Cái này sanh thì
cái kia sanh
Cái này diệt thì
cái kia diệt.”
(Mjjhimani
Nikaya III 63)
Điều đó có nghĩa
là, sự kiện chân thực của vạn pháp về vũ trụ và
con người đều tương quan tương duyên với nhau
trong mối quan hệ bất khả phân ly, trong pháp
giới trùng trùng duyên khởi, không một sự vật
nào đứng riêng lẻ mà có thể tồn tại được.
Sự kiện giác ngộ
này của đức Phật là một khám phá vĩ đại về những
nguyên nhân trói buộc chúng sanh vào con đường
sanh tử luân hồi và những phương pháp để diệt
trừ những khổ đau mà chúng sanh phải gánh chịu.
Trong suốt 49 ngày đêm ngồi dưới cội Bồ-đề, đức
Thế Tôn luôn tư duy về vấn đề sanh, lão, bệnh,
tử của thân phận con người, những câu hỏi mà
trước kia Ngài đã từng cưu mang như là một tiền
đề cho sự tu tập. Đoạn văn sau đây diễn tả sự
suy tư của đức Thế Tôn: “Các
Tỳ-kheo! Xưa kia, khi ta còn là Bồ-tát, chưa
thành Chánh đẳng giác, ta tự nghĩ: cõi đời này
thật do những nỗi lo khổ ràng buộc, sinh, già,
chết để rồi lại sinh ra và vẫn chưa thoát ly cái
khổ đau của già chết thì làm sao biết được cái
khổ của già chết để thoát ly? Lúc đó ta tự hỏi:
do đâu có già chết? do đâu có già chết?... Bấy
giờ nhờ sự tư duy chính đáng mà ta phát trí hiểu
biết đích thực như vầy: do có sinh mà có già,
chết; do sinh làm duyên mà có già, chết. Lúc đó
ta lại nghĩ do đâu có sinh, có hữu, có ái, có
thọ…”
Bằng phương pháp
quán lưu chuyển và hoàn diệt về Thập nhị nhân
duyên, đức Thế Tôn đã chứng đạt trí tuệ sáng
suốt, đoạn trừ tất cả mọi sự chướng ngại, thoát
ly sanh tử khổ đau và đạt được Nhất Thiết Chủng
Trí. Đề cập đến vấn đề: Vũ trụ là gì, nó là vô
biên hay hữu biên? Con người từ đâu mà có?… là
một trong những vấn đề đức Thế Tôn không bao giờ
trực tiếp đề cập đến; nhưng bàng bạc trong Tam
Tạng kinh điển chúng ta cũng tìm được những giải
đáp liên quan đến vấn đề này. Vậy thái độ của
đức Phật về vũ trụ và nhân sinh quan Phật giáo
như thế nào?
Phật giáo không
coi trọng nguyên lý, nguyên nhân hay căn nguyên
đệ nhất như ta thường thấy trong các hệ thống
triết học khác, không thừa nhận có tạo vật chủ…
Theo Phật giáo, vũ trụ không phải là quy tâm độc
nhất, đó là trường cộng sinh của vạn hữu. Phật
giáo cho rằng: mọi vật được tạo thành có ít nhất
là hai nguyên nhân, những sáng hóa hay biến
thành của các nguyên nhân đi trước nối tiếp
trong liên tục thời gian từ quá khứ đến hiện tại
và tương lai.
Sở dĩ các học
phái tin có một sự khởi đầu là do giới hạn của
tri thức, nên thấy vạn vật đều có khởi điểm. Nếu
có bắt đầu thì phải có kết thúc và nếu có kết
thúc thì vạn vật không thể tồn tại mãi. Nguyên
nhân thứ hai là do những nhận thức sai lầm về
vấn đề Có và Không. Với con mắt trần nông cạn,
khi chúng ta thấy một khoảng trống thì gọi là
không, thấy một vật có hình dáng, màu sắc, trọng
lượng…thì gọi là có. Cái “không” có trước cái “có”.
Từ không mà thành có, tất nhiên phải có một cái
khác để tạo ra “có”. Do suy luận như vậy nên tạo
ra Thần chủ.
Mọi sự vật “có”
và “không” đều nằm trong quy luật tương đối, tức
nó “có” và có trong sự không tồn tại vĩnh viễn,
mà có để rồi biến đổi, suy hoại trở về “không”
và “không” lại là một hình thái cho sự bắt đầu
“có” của sự vật mới. Kinh Đại Bát Niết Bàn ghi:
“Tùy theo nhân duyên hiện ra như là có sinh,
cho nên tạm gọi là Có. Bởi không có tự tính, nên
gọi là Không.” Cái vòng tròn khép kín ấy
chính là thực tại nhân sinh khổ ải, khổ vì thực
tại ấy luôn luôn biến đổi không ngừng, nay còn
mai mất. Sự đời sum họp rồi lại chia phôi, khổ
não là lòng tham dục, khát ái của chúng sanh bao
giờ cũng muốn trở thành như thế này hoặc như thế
kia, muốn còn mãi, sợ mất mát, cái bản ngã cố
nắm lấy (ngã và ngã sở) sự vật chính là nguyên
nhân tạo ra động lực cho sự vận chuyển của thế
giới và nhân sinh quan. Đức Phật, đấng Giác ngộ
đã tự mình chứng đạt chân lý tối hậu. Ngài tri
kiến sự vật vạn hữu qua Tam minh và Lục thông.
Chính vì thế, Ngài xem các vấn đề giải thoát khổ
đau là mục tiêu tối hậu mà một vị tu sĩ Phật
giáo cần phải hướng đến.
Một câu chuyện
thời danh được đề cập đến trong kinh Cù La.
Màlunkyaputta đặt ra 10 câu hỏi siêu hình để hỏi
Thế Tôn, xung quanh vấn đề có và không, thường
hay vô thường, hữu biên hay vô biên… (thế giới
thường hay vô thường? Như Lai có tồn tại sau khi
chết hay không? v.v…). Đức Thế Tôn đã im lặng
không trả lời. Ngài kể cho Màlunkyaputta nghe
câu chuyện một người bị mũi tên độc. Vấn đề cấp
thiết là phải rút mũi tên ra và chữa trị vết
thương ngay chứ không phải là vấn đề tìm cho ra
chất liệu đã làm nên mũi tên, người nào bắn mũi
tên, mũi tên được bắn tới từ đâu? Cũng thế, vấn
đề cấp thiết của con người là nhổ mũi tên “khổ
đau” chứ không phải đi tìm những câu trả lời cho
các vấn đề siêu hình không thiết thực. Chính vì
thế, đức Thế Tôn không thích huyền đàm viễn vông,
vô ích mà phải trấn tĩnh cho tâm thanh tịnh để
mà giác thức.
Kinh Kim Cang
ghi: “Hỡi
các Tỳ Kheo! Các Thầy đừng nên để tâm trí vào
những tư tưởng sau đây: Thế giới là hữu hạn, thế
giới là vô cùng. Điều đó không quan trọng. Điều
quan trọng là ta dạy các Thầy về sự khổ, nguồn
gốc sự khổ, đạo diệt khổ và con đường đi đến
diệt khổ. Những điều đó có ích, vì chắc chắn sẽ
đưa các Thầy đến cứu cánh của giải thoát vậy”
(tr. 188-189). Gốc khổ đau nơi nhân sinh
trần tục này mà còn chưa hiểu thì nói gì tới các
lẽ Hình nhi thượng, hạ cao xa liệu có ích gì đâu
cho người tu đạo và học đạo. Hiện tại con người
đang đắm say với thiên kiến chủ quan, cố chấp
với lý này lẽ khác, khiến mấy điều chân và thực
gần gũi nhất còn chưa nhận ra được, thì vội luận
tới các lẽ hư không mà làm gì!
Thái độ từ chối
đàm luận về các vấn đề siêu hình của đức Phật,
không phải vì Ngài không biết mà vì Ngài không
muốn tham dự vào các việc tranh luận, khẩu khí
mà các Bà-la-môn đương thời thường làm, các giáo
phái gặp nhau là họ tranh luận, mỗi người mỗi
kiến giải và tất nhiên ai cũng muốn thủ chấp
kiến giải của mình là hơn hết. Đức Phật cho rằng:
chân lý tự nó sáng tỏ, không cần phải có người
gọt giũa, nếu cứ tranh cãi thì tự mê để đi đến
làm hoen ố cả Đạo lẫn Giáo. Một lần ở Kosambi
đức Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo: “Những gì Như
Lai biết ví như rừng lá Simsapa, còn những gì mà
Như Lai giảng dạy thì ít như nắm lá trong tay,
nhưng đây là những phương thức trừ khổ”. Tất
cả những gì đức Thế Tôn nói chỉ nhắm đến giải
thoát khổ đau và giác ngộ chân lý, đấy là tính
chất thực tiễn, thực tế, rất thiết thực trong
hiện tại khổ đau của con người.
Mặc dù đức Thế
Tôn không tham dự vào các vấn đề siêu hình,
nhưng thế giới hiện tượng do duyên mà sanh, nên
nó vô ngã, nó rỗng không: Con người chỉ là tập
hợp của năm uẩn nên nó cũng vô ngã và rỗng không.
Con người và thế giới cùng hiện hữu mà không thể
tách rời nhau như trong kinh Giới Phân Biệt đức
Phật dạy: “Sắc uẩn gồm có nội sắc và ngoại
sắc, nội sắc là cơ thể vật lý của mỗi cá nhân,
ngoại sắc là thế giới vật lý”. Điều này có
nghĩa là vũ trụ tự nó là một phần của cơ thể con
người. Chính vì vậy, đức Phật giảng dạy về duyên
khởi các pháp (vũ trụ và nhân sinh quan) như một
sự phân tích thật tướng của các pháp là vô ngã,
để hàng đệ tử không tham đắm vào sắc pháp, không
lầm chấp ngã và ngã sở. Đức Phật dạy: “Này
các Tỳ-kheo! Giả như vào mùa thu, khi trời mưa
xuống các hạt mưa lớn, bong bóng nổi lên trên
mặt nước rồi tan đi và một người sáng mắt sẽ
nhìn thấy bong bóng nước ấy, quán sát nó, nhìn
tận bản chất nó, người ấy sẽ thấy nó rỗng không,
sẽ thấy nó không có ngã tính. Này các Tỳ-kheo!
Làm sao có ngã tính. Này các Tỳ-kheo! Làm sao
lại có thể có ngã tính trong cái bọt nước nổi
trên mặt nước ấy!”. Chính vì phân tích
sự tập họp các pháp, sự hình thành vũ trụ, để
hàng đệ tử thấy rõ sự thật ảo ảnh của các pháp
mà đoạn trừ các ái để tu tập. Về sau, các Luận
sư, chư Tổ mới giải thích những điều Phật dạy
liên quan đến vũ trụ và nhân sinh quan Phật giáo.

VŨ TRỤ QUAN:
Theo tuệ giác
của đức Phật thì vũ trụ vạn hữu đã hình thành và
biến chuyển là do cộng sinh, cộng hữu theo công
thức:
“Cái này có
nên cái kia có
Cái này không
nên cái kia không.
Cái này sanh nên
cái kia sanh
Cái này diệt nên
cái kia diệt.”
Đây chính là
nguyên lý duyên khởi được thiết lập để giải
thích vạn hữu, hiện tượng giới. Duyên khởi luận
trong Phật giáo có nhiều, nhưng những thuyết này
không trái ngược nhau.
Nghiệp cảm duyên
khởi:
Đây là chủ
trương của Nguyên thủy Phật giáo. Tư tưởng này
được rút ra từ trong Tứ diệu đế và Thập nhị nhân
duyên. Theo trật tự trong Tứ diệu đế thì khổ đế
đứng đầu tiên, đó là tên gọi chung cho mọi cái
có (quả) và tất cả đều chịu sự khổ đau, cội
nguồn của các sự khổ đau ấy là do các yếu tố nội
tại: sắc, thọ, tưởng, hành, thức (chánh báo) và
các hoàn cảnh xung quanh (y báo) nơi thời quá
khứ (nhân). Đó chính là một quá trình tồn tại
của khổ đau do nghiệp lực mà chiêu cảm.
Phần căn băn của
khổ: sanh, lão, bệnh, tử. Con người sanh ra đã
biết khóc chào đời, mở màn cho một kiếp sống khổ
đau. Cho đến khi già yếu bệnh tật hành hạ, cơ
thể mỏi mệt, lực bất tòng tâm và cuối cùng là
cái chết, sự đau đớn sợ sệt, tiếc nuối làm cho
tâm thức bất an. Trên cái khổ sanh tử mà con
người không thể làm chủ được, còn nhiều cái khổ
nữa như do tác động ngoại cảnh thời tiết nóng
lạnh, bão lụt, chiến tranh… chồng chất, hoành
hành đến cuộc sống của con người nên gọi là Khổ
khổ. Có hình tất có hoại, khế kinh chép “Phàm
vật gì có hình tướng đều phải bị hoại diệt”.
Chính vì vậy, con người sống trong sự chi phối
của vô thường, vô ngã, dời đổi, hợp tan mà không
thỏa mãn được mong muốn theo chấp ngã gọi là
Hoại khổ. Suốt cuộc đời phải chịu đựng sự khổ
chồng chất (khổ khổ), sự chi phối của luật vô
thường (hoại khổ) nên về phương diện vật chất
thì bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, phá hoại;
còn về phương diện tinh thần thì không thể tự
chủ, yên ổn, tự do, tâm hồn bị các dục vọng lôi
kéo, hành hạ. Đó gọi là Hành khổ. Tất cả những
nổi khổ ấy là kết quả tích lũy của cái nghiệp
luân hồi.
Hiện tại khổ đau
của cuộc sống không phải do một thế lực nào đem
lại, gây ra cho con người mà chính là do con
người tạo ra. Và vì đâu sanh ra những nổi khổ ấy?
câu hỏi này chính là nội dung của Tập đế. Tập là
sự chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày mỗi nhiều hơn.
Đức Phật dạy: “Cội gốc của sanh tử luân hồi
do các phiền não mê lầm và những dục vọng xấu xa,
những ý niệm sai quấy, làm não loạn thân tâm
chúng ta”. Các phiền não sai lầm, các dục
vọng xấu xa ấy chứa nhóm, tích tụ là nguyên nhân
cho cái tồn tại kéo dài không ngừng trong vòng
quay vĩnh cửu. chính đấy là sự sa lầy làm ngừng
đọng ý thức tiến hóa đến giải thoát. Đức Phật
dạy: “Không thể quan niệm được điểm khởi đầu
của vòng luân hồi, không thể khám phá được khởi
điểm nguyên thủy của chúng, bị cản trở trong màn
vô minh và dính mắc trong ái dục, đang vội vã,
hấp tấp, chạy đảo điên xuyên qua vòng sanh tử
liên tục tiếp diễn.” (kinh Tạp A Hàm).
Đối ngược với
trạng thái khổ đau của chúng sanh là tâm thức an
lạc của kẻ đã hoàn toàn diệt hết mọi phiền não,
dục vọng, mê mờ. Đó được gọi là Diệt đế. Trong
kinh Nhân Quả, Phật dạy rằng: “Các ông phải
biết, vì tập nhân phiền não mới có kết quả khổ
sanh tử, vậy các ông phải dứt trừ phiền não tập
nhân. Khi đã dứt trừ rồi, lại phải thường nắm
chặt chỗ dứt trừ cho chắc chắn, không khi nào
nới bỏ. Đến khi chứng được quả Niết-bàn, thì tất
nhiên tập nhân phiền não phải diệt hết, mà quả
khổ luân hồi cũng không còn”. Vì vậy, Diệt
đế là giải thoát hết mọi hệ lụy khổ đau, bất
luận nguyên nhân gần hay xa nào có thể chấm dứt
khổ đau, để đưa mình ra khỏi dòng thác lũ sanh
tử, chấm dứt vòng quay của tồn tại dục vọng,
kiến tạo một cuộc sống chân hạnh phúc. Đây là
trạng thái có đủ diệu dụng của Thường, Lạc, Ngã,
Tịnh, là trạng thái thực chứng cái bản thể của
vũ trụ.
Để đạt được
trạng thái an lạc hành giả phải tu tập, phương
pháp tu tập đưa đến cảnh giới an lạc ấy gọi là
Đạo đế. Đó là con đường đưa đến sự giải thoát
vĩnh viễn kiếp thân đau khổ bằng cách thường
xuyên làm tăng các yếu tố hướng đến thanh lọc
tâm thức, con đường đó được gọi là: Bát chánh
đạo được bắt đầu bằng Chánh kiến và kết thúc
bằng Chánh định, như vậy yếu tố tinh thần quyết
định đầu tiên, ý thức đi trước hành động, thanh
lọc ý thức là làm trong sạch hành động. Bát
chánh đạo đã mở ra con đường Trung đạo, nó mang
tính toàn diện và phổ cập. Do đó Bát chánh đạo
vừa giải quyết được các vấn đề thuộc cá nhân lẫn
cộng đồng xã hội. Chính vị vậy, lần chuyển bánh
xe pháp đầu tiên được xem là một giải pháp hữu
hiệu thực tế nhất để cải hóa con người, xây dựng
một xã hội toàn thiện.
Như vậy hệ thống
Tứ diệu đế phân cực thế giới quan thành hai lãnh
vực: sự tồn tại trần thế và chấm dứt sự tồn tại
đó. Vì chính chúng ta là vị kiến trúc sư xây
dựng ngôi nhà số phận của chúng ta, chính chúng
ta tạo ra hay tiêu diệt lấy, thiêng đường hay
địa ngục đều do nơi thân, khẩu, ý của ta. Những
tư tưởng, lời nói, hành động là động lực tạo
nghiệp, rồi từ nơi nghiệp đã tạo ra đó đưa ta
lên hay xuống từ kiếp này sang kiếp khác mãi mãi
trong vòng luân hồi, nghiệp quá khứ tạo điều
kiện để tái sinh trong kiếp hiện tại, nghiệp
hiện tại phối hợp với nghiệp quá khứ tạo điều
kiện để tái sinh trong kiếp vị lai và tùy theo
nghiệp thiện hay bất thiện đã tạo mà chúng sanh
tái sinh vào cảnh giới tương ứng nghiệp. Đời
sống được kiện toàn tính chất hữu hình là do hai
loại ảnh hưởng của hành động: biệt nghiệp và
cộng nghiệp. Biệt nghiệp tạo ra cá thể chúng
sanh, cộng nghiệp tao ra vũ trụ vạn hữu, các mối
quan hệ, ràng buộc chung quanh cá thể.
Nhìn nghiệp cảm
duyên khởi dưới góc độ 12 nhân duyên thì đây là
một vòng tròn sinh hóa khép kín bởi hoặc –
nghiệp – khổ, trong ý nghĩa rằng: nó không có
điểm khởi đầu, mà sự sinh hóa trần tục, dục vọng
nối tiếp làm nhân quả cho nhau, trong 12 chi
phần nhân duyên vô minh, ái, thủ được gọi là
Hoặc. Trong khi đó Hành và Hữu thuộc về Nghiệp
quả, các chi còn lại thuộc về Khổ quả. Vì do vô
minh mê tối nên mới tạo nghiệp vọng động (hành,
thức) mà có thân ngũ uẩn (danh, sắc) rồi 6 căn
tiếp xúc với 6 trần (lục nhập) sanh ra cảm giác,
cảm thọ (thọ), vì cảm thọ nên sanh lòng yêu ghét
(ái) rồi ham muốn chấp giữ, tạo thành thói quen
(thủ). Vì đã nhân tham ái phải nhận lấy quả báo
(hữu). Do có ái thủ hữu sẽ phải sanh vào kiếp vị
lai (sinh) và tiếp tục nhận chịu những cảnh khổ,
già và chết (lão, tử). Vòng lẩn quẩn 12 nhân
duyên này lưu chuyển không ngừng là do năng lực
tâm lý nó tồn tại, tiềm tàng vận hành. Cho nên
gọi là nghiệp cảm duyên khởi.
A-lại-da Duyên khởi:
Nghiệp được chia
thành 3 nhóm: thân, khẩu và ý nghiệp. Nếu khởi
tâm tạo tác phải chịu trách nhiệm việc làm đó và
phải chịu báo ứng, bởi ý lực là chủ động chính
của thân và khẩu, nó được hàm chứa trong tâm
thức vì đây là kho tàng tích chứa các hạt giống
(chủng tử) để thực hiện hình thành thế giới, con
người và các thế giới của hành động con người,
sau khi biểu hiện, lại huân tập thành chủng tử.
Chủng tử và hiện hành làm nhơn duyên cho nhau
tạo ra vòng sanh diệt, liên tục. Đó được gọi là
A-lại-da duyên khởi. A-lại-da là kho chứa các
chủng tử nên còn gọi là Tàng thức.
Theo Duy Thức
học, thức được chia thành 8 loại: nhãn thức, nhĩ
thức, tỷ thức, thân thức, ý thức, mạt-na thức và
A-lại-da thức. Sau khi chết, thân xác này tan rã,
nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai. Nhưng dẫn dắt
cái gì? Trong Duy Thức giải thích đó là A-lại-da
thức, thức này nó hằng khởi và thường tại, nó có
2 công năng:
- Thâu nhiếp tất
cả pháp
- Sanh khởi tất
cả pháp.
Khi chúng ta gây
thiện nghiệp hay ác nghiệp, thì chủng tử dồn
chứa vào tạng thức, đến khi đủ nhân duyên thì
những chủng tử ấy phát ra hiện hành. Bởi, A-lại-da
thức bao gồm hết thảy chủng tử của các pháp, nên
nó hiện ra hết năng lực vô hạn của vạn tượng.
Khi căn thân của ta vừa phát sanh là nó bao hàm
khách quan giới. Khách quan giới thiên sai vạn
biệt là do trong chủ quan giới có ý thức tác
động mà ra. Tóm lại, A-lại-da thức là cái căn
bản của hiện tượng giới. Từ vô thỉ, A-lại-da đã
bao trùm chủng tử, hiện tượng giới do chủng tử
phát hiện, hiện tượng đã phát hiện lại kích
thích làm nhân quả cho nhau hiển hiện ra vạn hữu
và làm nền móng cho kiếp luân hồi.
Chân Như duyên
khởi:
Chân Như là từ
ngữ duy nhất có thể dùng để diễn tả thực tại cứu
cánh vượt ngoài định danh, cũng gọi là Như Lai
tạng. Như Lai tạng là Phật tính ẩn tàng trong
bản tánh của phàm phu. Tức A-lại-da thức là phần
nhiễm của chúng sanh, Như Lai tạng là phần tịnh
của chúng sanh nên nó còn được gọi là Bạch Tịnh
thức. Chính điều này đã nói lên tính chuyển hóa
tâm thức của chúng sanh. Kinh Phạm Võng ghi: “Ta
chỉ là vị Phật đã thành, có nhiệm vụ khai thị
Phật tính cố hữu của các ngươi. Kẻ nào phát huy
được Phật tính tức sẽ thành Phật”.
Chân Như hay Như
Lai tạng là chỉ cho trạng thái chân thật của vạn
hữu trong vũ trụ, cội nguồn của một đấng giác
ngộ, căn cơ của giác ngộ. Khi tĩnh nó là tự thân
của giác ngộ, nhưng khi động nó xuất hiện có thể
trong hình thức loài người, chấp nhận một đường
lối thế gian và sắc thái của đời sống. Trên thực
tế, Chân Như hay Như Lai tạng là một và như nhau:
chân lý cứu cánh. Trong Đại thừa Chung giáo thì
Chân Như tùy duyên sanh ra muôn pháp “nhất thiết
duy tâm tạo”, tức vạn hữu không phải ngoài tâm
mà tồn tại. Chân Như tuy bị vô minh kích thích
mà diêu động, nhưng trong động có tịnh, trong
tịnh có động. Cũng như nước và sóng ở trong biển,
đứng về phương diện nước thì tất cả sóng đều là
nước, đứng về phương diện sóng mà nhìn thì tất
cả nước đều là sóng. Tâm dụ cho biển, Chân Như
dụ cho nước và vạn tượng giới dụ cho sóng. Chúng
sanh vì vô minh che lấp nên chỉ thấy có vạn
tượng giới. Bồ-tát và Phật vì đã trừ vô minh nên
thấy vạn tượng là Chân Như, tịnh là Chân Như,
động là vạn tượng, động và tịnh không rời nhau,
không cùng là một nhưng cũng không phải khác
nhau. Từ tịnh trở thành động là đi vào cửa sanh
diệt và đó cũng là nguyên nhân sinh khởi ra vũ
trụ vạn hữu.
Lục đại duyên
khởi:
Đó là 6 công
năng dung hòa lẫn nhau tạo ra muôn loài vạn vật
hiện hữu ở thế gian này: địa, thủy, hỏa, phong,
không và thức. Kinh Lăng Nghiêm ghi: “Khoảng
không gian vô cùng tận do nguồn linh thức quá
mạnh, làm rung động một lượt 6 yếu tố công năng
và cùng quay chuyển biến hiện mà sanh ra phong
đại (gió). Chính do những luồng gió thổi quyện
các yếu tố tạo thành không khí, rồi đến địa đại,
do sự cọ xát giữa hai áp lực gió và không khí
tạo thành lửa (hỏa đại), hơi nóng bốc lên gặp
khí lạnh ép xuống thành nước (thủy đại). Lửa bốc
lên, nước dội xuống làm cho lắng đọng lại và
nguội dần, chỗ nào bằng thẳng là đất, chỗ nào
sụt xuống là bể, là hồ, là ao từ đó mọc ra cây
cối…Tất cả những thứ đó gọi chung là khí thế
gian.”
Trong lục đại
thì địa, thủy, hỏa, phong, không thuộc về sắc
pháp, thức thì thuộc về tâm pháp. Tâm và sắc đều
cùng dung hòa nhau không ngăn ngại nhau và tùy
duyên sanh khởi ra vũ trụ vạn hữu. Chúng ta hiện
hữu, vũ trụ hiện hữu là do lục đại kết hợp mà ra,
lục đại ly tán thì không còn. Còn, mất chẳng qua
là một cuộc hoạt động của vũ trụ vạn hữu. Sự ly
tán và kết hợp của lục đại chính là sự vận hành,
hoạt động của vũ trụ vạn hữu. Chân Như là thực
thể của Lục đại mà lý tánh của ta trừu tượng
được, lìa hiện tượng thì không có thực thể, lìa
vật thể thì không có lý được.
Thuyết lục đại
duyên khởi là chủ trương của Chân Ngôn tông, lập
cứ trên bộ kinh Hán tạng tương đương “Phân biệt
lục giới kinh” (Trung A Hàm 42). Bộ kinh này đức
Thế Tôn dạy cho một tu sĩ trẻ tuổi
Phất-ca-la-sa-lợi tại một nhà của thợ làm đồ gốm
trong đêm trú mưa, để khai ngộ vị tu sĩ trẻ tuổi
này giác ngộ rằng: Ngã và Pháp đều là vô ngã để
rời khỏi chấp thủ tướng, nguyên nhân sinh tử; từ
đây sanh tâm từ bỏ và yểm ly, mong cầu liễu
thoát khổ đau.
Pháp giới duyên
khởi:
Đây là chủ
thuyết của Hoa Nghiêm tông, thuyết này cho rằng:
vũ trụ là biểu lộ Động của nguyên lý Tĩnh. Vạn
hữu hỗ tương phụ thuộc, hỗ tương giao thiệp,
không trở ngại lẫn nhau, cùng khởi và đồng thời
có mặt; do đó tạo ra một bản đại hòa tấu vũ trụ
của toàn thể điệu. Nếu thiếu một, vũ trụ sẽ
không toàn vẹn, nếu không có cái tất cả thì cái
một cũng không “một là tất cả, tất cả là một”.
Khi toàn thể vũ trụ tiến tới một bản hòa âm toàn
hảo thì nó được gọi: Nhất chân pháp giới, vũ trụ
của cái một và cái thực. Trong vũ trụ lý tưởng
đó, vạn hữu sẽ tồn tại trong hòa điệu toàn diện,
mỗi hữu không chướng ngại hiện hữu và hoạt động
của hữu khác.
Theo thuyết này,
Pháp giới tròn đầy biểu hiện qua 4 mặt:
- Sự pháp giới:
Thế giới của đời sống hiện thực.
- Lý pháp giới:
Thế giới lý tưởng của định luật nguyên lý.
- Lý sự vô ngại
pháp giới: Thế giới thể hiện lý trong sự, sự và
lý cùng hòa điệu.
- Sự sự vô ngại
pháp giới: Thế giới tương giao hòa điệu giữa các
sự và các hiện thực.
Cái năng động
chủ lực của Pháp giới duyên khởi là do vạn pháp,
pháp này dung thông với pháp kia, cùng nhau làm
duyên khởi, mỗi lớp mỗi lớp không cùng tột cho
nên gọi là: pháp giới trùng trùng duyên khởi. Sở
dĩ các pháp làm nhân, làm duyên hòa hợp nhau
được là do 10 huyền môn dung thông vô ngại, 10
huyền môn ấy là:
1- Đồng thời cụ
túc tương ưng môn
2- Quảng hiệp tự
tại vô ngại môn
3- Nhất đa tương
ưng bất đồng môn
4- Chư pháp
tương tức tự tại môn
5- Ẩn mật hiển
liễu câu thành môn
6- Vi tế tương
dung an lập môn
7- Nhân đà la
võng cảnh giới môn
8- Thật sự hiển
pháp sinh giải môn
9- Thập thế cách
pháp dị thành môn
10- Duy tâm hồi
chuyển dị thành môn.
Về thuyết Pháp
giới duyên khởi không chủ đích giải thích điểm
khởi nguyên của vũ trụ, mà chỉ trình bày cái
thực thể toàn diện sinh khởi hoạt động của vũ
trụ mà thôi.
Như vậy, tìm đến
căn nguyên của vũ trụ vạn hữu thì gồm có nhiều
thuyết khác nhau như:
- Nghiệp cảm
duyên khởi: được diễn tả như bánh xe sinh hóa mà
nghiệp lực là nguyên nhân chính của hiện tượng
giới.
- A-lại-da duyên
khởi: là một bước đi sâu vào để giải thích căn
nguyên của nghiệp lực. Căn nguyên ấy chính là A-lại-da,
công năng A-lại-da lại là nơi cất giữ và phát
hiện ra hiện hành của vũ trụ vạn hữu.
Chân Như duyên
khởi: Chân Như lại là một nội hàm sâu kín trong
A-lại-da, Chân Như hàm chứa trong tàng thức,
tàng thức lại dung chứa vô minh làm cho Chân Như
dao động mà phát sinh hiện hữu vũ trụ.
Lục đại duyên
khởi và pháp giới duyên khởi: thuyết minh cái
công năng tạo ra vũ trụ chứ không nhằm vào
nguyên nhân như ba thuyết trên.
Tuy để nói về
một chủ đề khởi nguyên của vũ trụ và nhân sinh
quan, nhưng giáo lý Phật giáo có nhiều thuyết
như vậy, có thực sự trái nghịch nhau không? Xin
thưa: không!
Vì tôn chỉ của
đức Phật là giải thoát sanh tử cho chúng sanh,
mà chúng sanh thì căn cơ bất đồng nên không thể
chỉ dùng một phương thức để giáo hóa. Như nền
giáo dục cũng chia ra nhiều cấp bực, bước đầu sơ
cơ học sinh được cộng trừ nhân chia trên những
con số thực, đến cấp III kiến thức đòi hỏi không
đơn thuần cộng trừ nhân chia mà đi đến căn thừa
tích phân… nhưng chắc chắn một điều không phải
không xác lập trên cơ sở cộng trừ nhân chia.
Cũng thế, trí
tuệ không đồng nhau của các hạng đệ tử cần phải
dụng đến kỹ năng nâng cấp để dễ tiếp thu. Cho dù
gồm các thuyết có phần dị ngôn nhưng quy luật
chung vẫn đồng nhất, đều cho ta một kết luận
chính: vũ trụ vạn hữu do nhân duyên quả cấu tạo,
giữa các hiện tượng có là do những mối dây liên
hệ chằng chịt mật thuyết với nhau mà không bao
giờ đứt quãng. Bởi vũ trụ là một “khối duy nhất”
nó được bao gồm tinh thần và vật chất, vốn cùng
một bản và cùng bất biến, đồng chịu chung vào
công lệ: thành-trụ-hoại-không.
Vũ trụ và con
người cứ như dòng sông chảy xiết ra biển, đó là
đứng về phương diện động. Nhìn về phương diện
tuyệt đối thì tất cả vạn vật không sinh cũng
không diệt, cái bản thể tuyệt đối không thêm
không bớt và đó là pháp nhĩ như thị và vấn đề mà
Như Lai không muốn tham luận đến, vì ngôn ngữ
chỉ làm mê mờ về Chân Như mà thôi.

NHÂN SINH QUAN:
“Không thể
tìm ra một tạo vật, một Brahma hay một vị nào
khác làm chủ vòng luân chuyển đời sốn;. chỉ có
hiện tượng diễn tiến, tùy thuộc những điều kiện”.
(Thanh Tịnh Đạo Luận)
Thế ấy “hiện
tượng diễn tiến tùy thuộc những điều kiện” là
giải đáp những thắc mắc của con người về câu hỏi:
con người do đâu mà có, có từ khi nào?
Con
người do đâu mà có?
Cái
“hiện tượng diễn tiến tùy thuộc những điều kiện”
ấy được nói rõ trong Thập nhị nhân duyên.
Đây là bài pháp
giảng về tiến trình của hiện tượng sanh tử luân
hồi, nguồn gốc đau khổ và chỉ nhằm mục đích giúp
chúng sanh thoát khỏi các phiền não của đời sống.
- Vô minh: tức
do không nhận định được chân lý về sự khổ,
nguyên nhân của sự khổ, sự diệt khổ và con đường
đưa đến sự diệt khổ. Cái không thấy, không nhận
định được đó chính là nguyên nhân làm động lực
thúc đẩy chuyển động bánh xe đời sống. Đức Phật
dạy: “Vô minh là lớp ảo kiến mịt mù dày đặc,
trong ấy chúng sanh quay quần, quanh lộn.” (Nipata)
Đến khi lớp vô
minh bị phá vỡ thì vấn đề nhân quả cũng chấm dứt
“người đã tiêu trừ ảo kiến và phá tan lớp tối
tăm dày đặc sẽ không còn thênh thang đi mãi nữa.
Đối với người ấy sẽ không còn vấn đề nhân quả
nữa”.
-
Hành: là hành động, là tác nghiệp.
Nó phát sinh tùy
thuộc vào vô minh. Tất cả những tư tưởng, lời
nói, việc làm thiện và bất thiện đều nằm trong
Hành. Những hành động tốt hay xấu trực tiếp phát
nguồn từ vô minh, hay nói cách khác thì vô minh
gián tiếp làm động cơ thúc đẩy để tạo nghiệp
- Thức tái sanh
nối liền quá khứ với hiện tại là tùy thuộc nơi
hành. Thức tái sanh phối hợp với tinh trùng của
cha và minh châu của mẹ cấu thành bào thai chuẩn
bị cho cuộc sống kế tiếp, trong cái thức ấy ngủ
ngầm những cảm giác đã thọ, những đặc tính và
những khuynh hướng riêng biệt trong dòng đời đã
qua của một cá nhân.
- Danh-sắc phát
sanh cùng một lúc với thức tái sanh. Hành và
thức thuộc về 2 kiếp quá khứ và hiện tại của một
chúng sanh. Trái lại thức và danh sắc cùng phát
sanh trong một kiếp sống. Danh thuộc phần tâm,
sắc thuộc phần nhục thể, hữu hình của một chúng
sanh.
- Lục nhập được
hình thành từ nơi danh sắc, đó là chi thứ 5
trong 12 chi phần, nói lục nhập là nói sự gặp gỡ
giữa 6 căn và 6 trần, khi sự gặp nhau giữa căn
và trần thì thức xuất hiện, như thế lục nhập tự
nó bao hàm vô minh và khổ đau. Đức Phật dạy: “Vì
có mắt và sắc nên nhãn thức phát sanh, xúc là
giao điểm của ba yếu tố ấy. Vì có tai và âm
thanh nên nhĩ thức phát sanh. Vì có mũi và hương
nên tỷ thức phát sanh. Vì có lưỡi và vị nên
thiệt thức phát sanh. Vì có thân và vật có thể
sờ mó được nên thân thức phát sanh. Vì có tâm ý
và đối tượng của tâm pháp nên ý thức phát sanh.”
- Xúc là điểm
giao thoa giữa ba yếu tố từ nơi lục nhập. Như
vậy sự đụng chạm suông không phải là xúc, vì
muốn có xúc thì phải đủ ba yếu tố: đối tượng,
giác quan và thức.
- Thọ cảm giác
thâu nhận lạc, bất lạc, bất khổ bất lạc. Chính
thọ thâu nhận những quả lành dữ của những hành
động trong hiện tại, ngoài tâm sở thọ không có
một linh hồn hay một bản ngã nào hưởng quả lành
hay quả dữ.
- Ái tùy thuộc
nơi cảm thọ mà phát sanh. Cũng như vô minh, ái
hay ái dục rất quan trọng, luyến ái, khao khát,
bám víu. Trong kinh Chánh Tri Kiến, tôn giả
Xá-lợi-phất bàn đến ba nhóm ái như sau: “Này
chư Hiền! Thế nào là sự bịnh khởi của khổ đau?
Chính ái hướng đến một đời sống khác, đi cùng
với hỷ lạc và tham, tìm kiếm hỷ lạc tại chỗ này
chỗ kia, đó là dục ái, hữu ái và vô hữu ái. Này
chư hiền! Đây gọi là nguồn gốc của khổ đau”.
Khát ái các lạc thú có nghĩa là khát ái vị ngọt
của sắc, thinh, hương, vị và xúc. Đây là dục lạc,
trong đời sống hằng ngày, con người luôn sống
với khát vọng hạnh phúc và lạc thú từ sáu trần.
Chẳng may mọi vật, mọi lạc thú đều vô thường qua
từng sát na và sự kiện này khiến con người sầu
khổ và khiến dục vọng bốc cháy, dục vọng càng
bốc cháy thì khổ đau càng nhiều. Điều này cho ta
thấy, tham ái chính là căn gốc của khổ đau cho
kiếp hiện tại và tương lai.
- Thủ là tìm cầu
nắm lấy cái hay, cái tốt, cái ưa thích do nơi ái
mà phát sanh. Sự khổ đau của cuộc đời đã khiến
con người nắm giữ lòng ham muốn và nắm giữ đối
tượng ham muốn, xem đấy là con đường tìm kiếm
hạnh phúc. Do vậy, con người xem dục vọng và tư
duy như là tự ngã của mình, thực ngã của mình.
Nguyên nhân của thủ là luyến ái lầm lạc, ái như
kẻ trộm đi mò trong đêm tối để trộm vật, thủ như
kẻ trộm đang ôm giữ vật được lấy cắp.
- Hữu chi thứ 11
trong 12 nhân duyên, tùy thuộc nơi Thủ mà Hữu
phát sanh, đó là sản phẩm từ sự tích tụ của Thủ,
có nghĩa là đang trở thành, hành động tạo nghiệp
và những cảnh giới của chúng sanh. Hữu gồm có:
Dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.
+ Dục hữu: thế
giới mà chúng sanh tham đắm sắc, thinh, hương,
vị và xúc.
+ Sắc hữu: cảnh
giới mà chúng sanh tham đắm các sắc tế nhị, tham
đắm sự hiện hữu và tồn tại.
+ Vô hữu sắc:
cảnh giới mà chúng sanh nhàm chán hiện hữu,
chúng sanh cõi này chỉ mong muốn không hiện hữu.
- Sanh tùy thuộc
nơi hữu có mặt ngay nơi kiếp hiện tại. Một cách
chính xác, sanh là sự phát sanh của những hiện
tượng tâm-vật lý con người (một cuộc sống vừa
chào đời).
- Lão tử là hậu
quả hiển nhiên của sự sanh ra, là sự già yếu,
bịnh hoạn, chết chóc của cuộc đời con người.
Quả phát sanh vì
có nhân. Vậy nếu không có nhân tức không có quả,
nếu nhân bị diệt tức quả cũng sẽ diệt. Trong 12
nhân duyên vô minh thuộc về hoặc và hành thuộc
về nghiệp, Đó là nhân quá khứ, do nhân quá khứ
ấy mà có năm quả khổ hiện tại: thức, danh sắc,
lục nhập, xúc và thọ. Do quả khổ hiện tại nói
trên mà khởi ra hoặc là ái và thủ; ái, thủ lại
tạo nghiệp là hữu, do đây làm nhân khổ cho đời
sau là sanh và lão tử. Tiến trình Nhân và Quả
liên tục diễn tiến theo vòng tròn
Hoặc-Nghiệp-Khổ vô cùng tận, không thể nhận ra
được khởi điểm của tiến trình ấy, vì ta không
thể quan niệm được điểm chấm dứt của dòng thời
gian vô hạn, dòng sanh tử của ta luôn bị màn vô
minh bao phủ. Tuy nhiên, giờ phút nào trí tuệ
thay thế vô minh và chứng nghiệm được bản chất
của Niết-bàn, khi ấy tiến trình sanh tử sẽ chấm
dứt. Quá trình vận hành của 12 nhân duyên giải
đáp câu hỏi mà nhân loại luôn tìm kiếm, tranh
luận, lập luận… về khởi nguyên con người do đâu
mà có? Bây giờ chúng ta tìm hiểu về cấu tạo sắc
thân của con người là gì?
Sắc thân con
người:
Giáo lý Ngũ uẩn
cho ta hiểu rõ về sắc thân con người được cấu
tạo như thế nào? Ở tại vườn Lộc Dã, ngay sau
ngày thứ nhất giảng dạy về giáo lý Tứ Thánh đế,
đức Phật đã dạy giáo lý Ngũ uẩn. Đức Phật dạy:
cái được gọi là chúng sanh gồm 5 uẩn, ngoài 5
uẩn ấy không có chúng sanh. Nếu bỏ năm uẩn ra sẽ
không còn gì tồn tại, không có linh hồn hay bản
ngã trong một uẩn riêng lẻ, không có linh hồn
trong 5 uẩn hợp lại, mà linh hồn cũng không có
ngoài 5 uẩn ấy. Vậy 5 uẩn ấy là gì?
Năm uẩn đó chính
là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức
uẩn.
Uẩn nghĩa là sự
tụ tập, tích tập theo từng loại, cùng loại, cùng
với tính chất giống nhau, nhóm lại một nhóm gọi
là uẩn. Tức là năm nhóm: nhóm sắc, nhóm thọ,
nhóm tưởng, nhóm hành và nhóm thức kết hợp thành
một giả tướng, giả tướng ấy được gọi là con
người.
Ngũ uẩn cũng gọi
là sanh y, tức là cái căn cứ cho một đời sống
khác, là chỗ y cứ cho một cuộc đời, cho một sự
sống nên gọi là sanh y.
Trong kinh Tạp A
Hàm VI cũng nói: “Ư sắc nhiễm trước triền
miên danh viết chúng sanh; ư thọ, tưởng, hành,
thức nhiễm trước triền miên danh viết chúng sanh.”
Nghĩa là đối với sắc nhiễm trước triền miên gọi
là chúng sanh, đối với thọ, tưởng, hành, thức
nhiễm trước triền miên gọi là chúng sanh, ai
không nhiễm trước thì người đó là Phật.
Kinh Thế Bổn
Duyên nói: “Chúng sanh là một danh từ chung
gọi tất cả các loại sanh chung trong thế gian
này, không phân biệt già, trẻ, nam, nữ… gì cả”.
Trong Câu Xá
Quang Kí, quyển I lại nói: “Thọ chúng đa sanh
tử cố viết chúng sanh.” Tức là thọ rất nhiều
sanh tử gọi là chúng sanh. Trong bộ Đại Thừa
Đồng Tánh nói rằng: “Do lấy năm uẩn làm duyên
giả hợp sinh ra nên gọi chúng sanh”.
Như vậy, chúng
ta hiểu chúng sanh ở đây cũng chính là chữ Ngã.
Cái Ngã được tích tập, nhóm họp của năm nhóm:
-Sắc (thân thể)
-Thọ (cảm giác)
-Tưởng (tri giác)
-Hành (động lực
và cảm xúc)
-Thức (vận động
của ý thức)
Sự nhóm họp tạo
thành một cá thể người và sự nhóm họp ấy không
có một bản ngã riêng biệt, nó chỉ là giả tướng,
làm căn cứ cho cuộc sống. Nhưng vì vô minh che
lấp mà lầm chấp cho rằng đó là ngã - một cái Tôi
riêng biệt, rồi khư khư theo đó mà tham ái, chấp
thủ, tạo nghiệp, cứ thế mà xoay vần, lặn hụp mãi
trong biển sanh tử luân hồi.
- Sắc uẩn được
hiểu là cơ thể vật lý, là thể chất con người.
Sắc uẩn gồm tứ đại năng tạo và tứ đại sở tạo. Tứ
đại năng tạo: đất, nước, gió, lửa; tất cả sự vật,
tất cả vật chất đều do tứ đại này mà có, nó như
cái gốc từ đó sanh ra tất cả sự vật nên gọi là
năng tạo. Tứ đại sở tạo: năm căn, năm trần được
tạo ra bởi đất, nước, lửa, gió và đồng thời cũng
do tính chất của tứ đại: cố, dịch, nhiệt, động
tạo ra. Vì năm căn, năm trần này mà tứ đại được
gọi: sở tạo.
Năm căn: mắt,
tai, mũi, lưỡi và thân; những hình dáng bên
ngoài, nó như những cửa sổ để thu nhận năm trần:
sắc, thanh, hương, vị, xúc được gọi là phù trần
căn. Chính phần thần kinh ở não bộ điều khiển
tất cả cảm giác của con người, khi các sự vật
bên ngoài tác động vào, qua phù trần căn được
truyền dẫn đến trung tâm và tại đây ứng đối tạo
thành cảm giác. Căn này được cấu tạo bởi những
chất liệu rất tinh tế vi diệu nên gọi: tịnh sắc
căn.
- Thọ uẩn: thọ
là lãnh nạp, nạp thọ, nhận lãnh. Cái gì đến với
ta, ta nhận lãnh gọi là thọ, nó thuộc về phần
cảm giác. Thọ gồm có: lạc thọ, khổ thọ và bất
khổ bất lạc thọ. Thọ sẽ đưa đến ái và thủ, thọ
này mà chấp thủ thì sẽ thành ra ái và trước.
Chấp nhận cái này như thế này, cái kia như thế
kia… chấp nhận thế gian này là thường hay vô
thường, thế gian là vô biên hay hữu biên… cho
nên trong kinh Phạm Võng và Trường A Hàm, đức
Phật nói có 62 kiến chấp của ngoại đạo đều do
thọ nhận mà ra cả.
- Tưởng uẩn:
Tưởng là tưởng tượng, suy tưởng, là phần tri
giác của con người; sự tri giác sai lầm vào cá
nhân hoặc cá tính dẫn đến kiến chấp có một cái
Ngã – Ngã
sở đó là ảo tưởng. Trong kinh Phật dạy: “Ta
có mặt trong quá khứ, đó là một ảo tưởng; ta
không có mặt trong quá khứ đó là một ảo tưởng.
Ta có sắc trong quá khứ, đó là một ảo tưởng; ta
có mặt trong hiện tại đó là một ảo tưởng. Ta có
sắc trong hiện tại đó là một ảo tưởng, trong vị
lai, trong quá khứ như thế là một ảo
tưởng”.
Có tưởng là có
vướng mắc, là có chướng ngại, tức là trí tuệ bị
hạn, đang bị ràng buộc, đang bị diễn biến sanh
diệt, tưởng thuộc về kiến, kiến thuộc về chấp
thường chấp đoạn, chấp có chấp không, thế giới
hữu biên hay vô biên… Chính những ý tưởng suy
đoán này dẫn đến ý thức phân biệt, so sánh và
đặt tên cho sự vật, tạo ra thế giới muôn hình
vạn trạng sai biệt. Vốn dĩ pháp giới bình đẳng
nhất như trong mối tương quan chặt chẽ của pháp
giới “Trùng trùng duyên khởi”.
- Hành uẩn:
nghĩa là sanh diệt, là thiên lưu, tạo tác. Nó
thuộc phần cảm xúc và động lực để đưa đến sự vận
động của ý thức. Trong kinh Phật dạy: “Chư
hành vô thường, chư pháp vô ngã”. Hành là
nói về các pháp, các hiện tượng được kết hợp bởi
nhiều yếu tố, nó vô tự tính, luôn luôn dời đổi
nên gọi là hành. Như vậy, chữ hành bao gồm cả
sắc và tâm. Sắc cũng hành, thọ cũng hành, tưởng
và thức cũng hành. Vì sắc, thọ, tưởng, hành,
thức đều có tính chất được kết hợp bởi nhiếu yếu
tố và luôn luôn thay đổi. Trong 100 pháp (ngoại
trừ sắc, thọ, tưởng, thức vì chúng đã có tên
riêng) tấc cả các pháp đều được gọi là hành uẩn,
những pháp đó được phân làm hai: tâm tương ưng
hành và tâm bất tương ưng hành.
Tâm tương ưng
hành gồm có 51 món tâm sở: ngũ biến hành, ngũ
biệt cảnh, 11 món thiện, 20 món tùy phiền não, 6
căn bản phiền não, 4 bất định; 51 món tâm sở này
hoạt động cùng tâm vương nên gọi là tâm tương
ưng.
Tâm bất tương
ưng: gồm có 24 món tâm sở, nó không cần tâm
vương vẫn hoạt động được. Tuy nhiên, chúng cũng
không tách ra khỏi tâm vương mà có được.
Trong hành uẩn
suốt quá trình hành động có cố ý đều là tác động
của tư tâm sở. Đức Phật dạy có cố ý làm (tư tâm
sở hiện hữu trong hành động gồm ba giai đoạn:
suy nghĩ tính toán, quyết định và hành động) mới
thành nghiệp, mới đưa đến quả, như vậy mới gọi
là nghiệp.
- Thức uẩn: sự
vận động của ý thức, sự nhận thức, biện biệt một
cách rõ ràng, có tính trực giác, hiện lượng.
Nhận thức cái này, cái nọ… rồi phản ảnh lại,
phản ánh cảnh vật ở trong tâm; như khi sắc tác
động vào mắt, mắt biết đó là sắc; tiếng tác động
vào tai, tai biết đó là tiếng… biết sắc, biết
tiếng, biết hương, biết vị… đó là thức giác, là
liễu biệt nhưng không hề có hiện lượng so sánh,
hay dở, tốt xấu.
Nói tóm lại, ngũ
uẩn gồm hai phần thể chất (sắc) và tâm hồn (thọ,
tưởng, hành, thức) hai phần này tương đương với
danh và sắc trong Thập nhị nhân duyên; khi phân
tách thì gọi ngũ uẩn, gom lại thì gọi là danh
sắc, hay là sắc tâm. Trong con người chúng ta
không có cái gì ngoài năm uẩn, năm uẩn kết hợp
tạo nên cá thể người, nếu chúng ta không đem tâm
so sánh phân biệt năm uẩn thì vạn pháp đều bình
đẳng, tất cả pháp như nhau, nó trùng trùng duyên
khởi tạo nên một sự tương quan chặt chẽ, cái này
liên hệ với cái kia, chúng nằm trong nhau và
không tách biệt nhau. Thế nhưng tưởng nó chia ra,
tạo ra, sắp đặt tạo nên cái danh của các pháp,
vì vậy chúng ta thấy giữa người có học thức,
người ít học thức với một em bé sơ sinh có cái
khác nhau. Vì cái tưởng, trình độ của cái tưởng,
tác dụng của cái tưởng mà tạo thành rồi dẫn đến
kiến chấp vào ngã và ngã sở. Trong sự tin tưởng
rằng tôi là cái này hay tôi có cái đó làm cho
vạn pháp có ranh giới, có giới hạn, có nghiệp,
lại chính là nơi nghiệp vận hành bánh xe luân
hồi sanh tử khổ đau.
Trên đây đã nói
rõ về ngũ uẩn, sự phân tích về sắc thân nhân
sanh, đó chỉ là một tích tập, nhóm họp tạo thành
nên không có một cái Ngã thể riêng biệt để chấp
thủ. Tuy nhiên, sự đau khổ của con người không
do sự tích tập, nhóm họp ấy mà chính là do lòng
khát ái năm uẩn; đức Phật dạy rằng: năm uẩn là
gánh nặng.
Kẻ gánh nặng là
người
Cầm lấy gánh
nặng lên
Chính là khổ ở
đời.
Còn đặt gánh
nặng xuống
Tức là
lạc ở đời.
Đặt
gánh nặng xuống rồi
Không mang thêm
gánh khác.
Nếu nhổ khát ái
lên
Tận cùng đến gốc
rễ
Không còn đói và
khát
Đã giải thoát
tịnh lạc.
(Tương Ưng Bộ
Kinh III. Tr.39).
Như vậy, khởi
nguyên của sự sống con người nó không có sự bắt
đầu và sự chấm dứt, mà là vòng tiếp nối của
Hoặc-Nghiệp-Khổ; vòng tròn 12 Nhân duyên được
nối tiếp của nhân quá khứ, quả hiện tại, nhân
hiện tại quả vị lai. Sự vận hành này được vận
hành trên giả tướng của bản ngã.
Giá Trị Của Con
Người:
Trong kinh Hoa
Nghiêm có dạy: “Con người là hơn cả, vì có
thể thực hiện mọi sự tốt đẹp ở đời”. Kinh Ưu
Bà Tắc dạy: “Hoàn cảnh con người không quá
khổ như địa ngục, không quá vui như thiên đường
và không ngu si như các loài sinh vật”.
Và lời tuyên
ngôn của đức Thế Tôn khẳng định rằng: “Hết
thảy chúng sanh đều có Phật tánh”. “Ta là
Phật đã thành và các ông là Phật sẽ thành”.
Như vậy, giá trị con người trong đạo Phật luôn
được đề cao và được nhìn nhận là một chủng loại
có đặc tính vạn năng. Tư tưởng, ý chí và hành
động của con người quyết định hết thảy. Con
người tốt hay xấu, giàu hay nghèo, ngu tối hay
thông minh và xã hội có mở mang hoặc thoái hóa,
nguyên nhân chính vẫn là con người, con người tự
tạo nên mình, cũng chính con người tự tiêu diệt
lấy mình, bên trong con người có một đống rác
tật xấu và một kho tàng đức hạnh. Ta có thể tìm
thấy trong con người bản chất cầm thú, sâu bọ,
người, siêu nhân, trời, phạm thiên… Những khuynh
hướng tội lỗi và những tâm tánh thánh thiện đều
có ngủ ngầm trong đó. Con người có thể là một
phước lành hay một tội lỗi cho kẻ khác, vì chính
con người tự mình là một thế giới, nếu con người
biết cách điều khiển cuộc sống thì mọi việc sẽ
tốt đẹp, ngược lại thì cuộc sống, người giăng
bẫy chính là con người và người mắc bẫy cũng
chính là con người. Lòng khát ái của con người
đối với vật chất như tiền tài, sắc đẹp, ngủ nghỉ,
ăn uống cùng với những ham muốn thỏa mãn những
nhu cầu về tinh thần như danh lợi, chức quyền…
làm cho con người ích kỉ, tham lam. Con người bị
trói buộc vào dục vọng như con ngựa bị ràng buộc
vào cổ xe, cứ phải kéo mãi không bao giờ được
yên nghỉ. Tuy nhiên, con người vốn hữu có Phật
tánh và Phật tánh nơi con người quyết định gầy
dựng hạnh phúc của con người mà không cần van
xin ở một đấng thần linh nào khác; cái vốn trí
tuệ, từ bi, bình đẳng, giải thoát và tự chủ nơi
con người sẽ làm tịnh hóa nỗi khổ đau, mê tối
trong cuộc sống và đưa con người trở về với bản
tánh thanh tịnh, kiến tạo thế giới Tịnh độ ngay
giữa nhân gian này.
Phật giáo phủ
nhận tạo hóa và các thuyết về nguyên nhân đầu
tiên; như vậy, theo quan điểm của Phật giáo chủ
trương không có định mạng, vận mạng, hay tiền
định bất di bất dịch đã được sắp xếp an bài,
kiểm soát tương lai của con người ngoài ý muốn
của họ và không tùy thuộc hành động của họ. Nếu
tin như vậy, tự do ý chí đã trở nên tuyệt đối và
là một chuyện khôi hài và đời sống trở thành
thuần túy máy móc và thụ động.
Con người có đủ
quyền năng lựa chọn giữa điều phải và lẽ quấy,
việc tốt và việc xấu. Con người có thể là bạn
lành hoặc là kẻ thù địch của chính mình và cho
người khác. Tất cả đều do tâm và tiến trình phát
triển của tâm. Mặc dù không sẵn có mục tiêu đặc
biệt cho kiếp nhân sinh, nhưng con người vẫn
được tự do tạo cho mình một lý tưởng của cuộc
sống. Vậy mục tiêu của cuộc sống là gì?
Theo Ấn Độ giáo
mục tiêu của đời sống con người là: đồng nhất
thể với Brahma hoặc “hườn nguyên” nhập trở vào
tinh chất thần linh, cái đại hồn, mà từ đó linh
hồn của con người được tách rời ra.
Theo Do Thái
giáo, Cơ Đốc giáo, Hồi giáo thì mục tiêu của đời
sống là làm vẻ vang Thượng đế mãi mãi đời đời.
Mục tiêu của
Phật giáo chính là trạng thái toàn giác (Sambodhi)
tức là thấu triệt được thực tướng của chính mình,
tự hiểu biết chính mình đúng như thật của các
pháp, đó là tịnh hóa tâm thức khỏi những dục
vọng thấp hèn, sự thấy rõ các pháp do duyên sanh
và cũng do duyên diệt. Sự giác ngộ cao siêu này
có thể thành đạt bằng cách nghiêm trì giới luật,
trau dồi tâm tuệ giác và khai triển trí tuệ hoàn
hảo mà không cầu khẩn một đấng tạo hóa nào cả.
Phật giáo tin có
hiện tại, rồi căn cứ trên hiện tại mà suy diễn
rằng có quá khứ và tương lai. Cũng như ánh sáng
đèn điện là sự biểu hiện ra bên ngoài của luồng
điện cực vô hình, cũng như thế ấy, con người chỉ
là sự biểu hiện ra ngoài của năng lực vô hình
của nghiệp. Bóng đèn điện có thể bể và ánh sáng
có thể tắt, nhưng luồng điện vẫn còn và ánh sáng
có thể trở lại khi gắn vào đó một cái bóng khác.
Cũng thế ấy, luồng nghiệp lực vẫn trôi chảy như
thường, không bị tan vỡ của cơ thể vật chất làm
xáo trộn. Tâm thức của con người lâm chung trong
hiện tại chấm dứt và khi chấm dứt, tạo duyên cho
một tâm thức mới phát sanh trong kiếp sống kế.
Nghiệp quá khứ tạo điều kiện cho kiếp sống tương
lai.
Như vậy, con
người sanh ra từ bào thai hành động (nghiệp),
đây là nguồn chủ động của sự sống, cha mẹ chỉ
cung ứng vào phần vật chất. Vào lúc thọ thai
chính do nghiệp tạo duyên để thức đầu tiên làm
nguồn sống vào thai bào, nghiệp lực vô hình này
phát sanh từ kiếp sống quá khứ tạo thành những
hiện tượng tâm linh và hiện tượng sinh lực trong
hiện tượng vật chất sẵn có, hội đủ ba yếu tố cấu
thành con người. Ấy chính là vòng tròn
Hoặc-Nghiệp-Khổ của luân hồi sanh tử mà không
tìm ra đầu mối.
Như vậy đặc tính
chung của hiện tượng giới (nhân sinh quan và vũ
trụ quan) đều do các duyên tụ hội theo luật nhân
duyên quả mà không có một bản thể riêng biệt tồn
tại vĩnh cửu, nên vũ trụ và nhân sinh đều có
chung tánh chất: vô thường, vô ngã. Người học
Phật chúng ta nhìn nhận sự vật đúng như bản chất
của chúng thì mới mong đoạn trừ khổ đau, giải
thoát an vui trong hiện tại và tự nơi cá nhân
mỗi người ý thức rằng: “Hành động được phát
xuất từ ba nghiệp: thân, khẩu, ý sẽ định hướng
cho cuộc sống thiện ác của mình”.
Thị Hoa
(theo Hoa Linh Thoại)

|