Bánh chưng, bánh
tét, bánh dày, xôi và cốm
Huỳnh Ngọc Trảng
Bánh tét là một
lễ vật được làm theo tín lý phồn thực của cư dân
nông nghiệp, cụ thể là cư dân cấy (tỉa) lúa (nếp).
Phải chăng, tín lý phồn thực có tuổi đời cổ xưa
hơn quan niệm về “trời tròn đất vuông” của sự
tích bánh dày và bánh chưng?...
Sự tích suy
nguyên về bánh chưng và bánh dày mà ngày nay
chúng ta đều biết và xác tín là do Tiết Liêu/
Lang Liêu - một trong các người con của vua Hùng
- làm ra là câu chuyện được ghi chép trong Lĩnh
Nam Chích Quái (thế kỷ XV).
Truyện kể rằng:
Sau khi vua Hùng Vương phá được giặc Ân, nhân
quốc gia vô sự, muốn truyền ngôi cho con, bèn
triệu hai mươi vị quan lang và công tử lại mà
phán rằng: “Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm
ta vừa ý, cuối năm nay mang trân cam mỹ vị đến
để tiến cúng tiên vương cho ta được tròn đạo
hiếu thì sẽ được ta truyền ngôi”.
Thế là các con
đều đua nhau đi tìm của ngon vật lạ khắp trên
cạn dưới bể, nhiều không sao kể xiết. Duy có vị
công tử thứ 18 là Tiết Liêu, bà mẹ trước kia vốn
bị vua ghẻ lạnh, mắc bệnh mà chết, tả hữu ít
người giúp đỡ, khó xoay xở, nên đêm ngày lo lắng,
mộng mị bất an. Một đêm kia mộng thấy thần nhân
tới nói rằng: “Các vật trên trời đất và mọi của
quý của người không gì bằng gạo. Gạo có thể nuôi
người khỏe mạnh và ăn không bao giờ chán, các
vật khác không thể hơn được. Nay đem gạo nếp làm
bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để tượng
trưng hình đất và trời rồi dùng lá bọc ngoài, ở
trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh thành lớn
lao của cha mẹ”. Tiết Liêu tỉnh dậy, mừng rỡ mà
nói rằng: “Thần nhân giúp ta vậy!”.
Nói rồi bèn theo
lời dặn trong mộng mà làm, chọn thứ gạo nếp
trắng tinh, lặt lấy những hạt tròn mẩy không bị
vỡ, vo cho sạch, lấy lá xanh bọc chung quanh làm
hình vuông, cho trân cam mỹ vị vào bên trong để
tượng trưng cho việc đại địa chứa chất vạn vật
rồi nấu chín, gọi là bánh chưng. Lại lấy gạo nếp
nấu chín, giã cho nát, nặn thành hình tròn,
tượng trưng cho trời gọi là bánh dày.
Đến kỳ, vua vui
vẻ truyền các con bày vật dâng tiến. Xem qua
khắp lượt, thấy không thiếu thức gì. Duy có Tiết
Liêu chỉ tiến dâng bánh chưng và bánh dày. Vua
kinh ngạc mà hỏi, Tiết Liêu đem giấc mộng thuật
lại. Vua đem nếm, thấy ngon miệng không chán,
hơn hẳn các thức của các con khác, tấm tắc khen
hồi lâu rồi cho Tiết Liêu được nhất.
Đến ngày Tết, vua
lấy bánh này dâng cúng cha mẹ. Thiên hạ bắt
chước (1).
Câu chuyện này có
một số chi tiết cần phải xem xét:
1. Trước hết,
khái niệm “trời tròn đất vuông” vốn có nguồn gốc
từ Trung Quốc (2). Từ thế kỷ thứ X, An Nam dần
dần thoát ly khỏi uy quyền phương Bắc, và đến
triều Lý (1009-1225), nước Đại Việt mới thực sự
là một quốc gia độc lập. Phật giáo được coi là
quốc giáo, Tăng lữ tham gia vào hàng ngũ quan
lại, và một số vị vua thời Lý, Trần đã tự mình
đứng ra thành lập các tông phái, thiền phái (Lý
Thánh Tông mở phái Thảo Đường, Lý Cao Tông tự
xưng là Phật, Trần Nhân Tông là sơ Tổ Trúc Lâm
yên Tử, được tôn là Điều Ngự Giác Hoàng). Tuy
vậy, về mặt quản lý nhà nước, do tiếp nhận văn
hoá phương Bắc, nước Đại Việt độc lập vẫn tổ
chức theo quan niệm vương quyền Nho giáo. Ngoài
các khái niệm Thiên Vương, Phật-Vua, vẫn còn
thừa nhận khái niệm Thiên Tử (Ông vua Con Trời).
Như vậy, vua vẫn phải lưu tâm đến việc tế cáo
"Cha Trời, Mẹ Đất" cũng như phong thần các xứ (Thiên
Tử phong bách thần) để tỏ rõ uy quyền với các
thần linh trong nước. Đàn Xã Tắc lập năm 1048 và
đàn Viên Khâu (Gò đất hình tròn, theo nguyên tắc
đàn xây ở phía Nam kinh thành để tế trời, gọi là
đàn Nam Giao), đàn Vu ở phía Nam kinh thành được
nhắc tới vào các năm 1137-1138 (3). Nói chung,
việc tế Trời-Đất đến thời Lê mới thực sự hoàn bị
theo nghi lễ Nho giáo. Song kể từ thế kỷ XI,
việc dựng đàn tròn, đàn vuông để tế "Cha Trời,
Mẹ Đất" đã cho thấy khái niệm “trời tròn đất
vuông” đã tồn tại trong nếp nghĩ của người dân
nước ta từ lâu
2. Các tác giả
Lĩnh Nam Chích Quái sau đó đã khuôn công năng
của hai loại bánh này vào việc cúng tổ tiên, tôn
vinh chuẩn mực hiếu đạo, một giá trị luân lý cốt
lõi của Nho giáo; để vua Hùng nói: “Tiến cúng
tiên vương cho ta tròn đạo hiếu”, và cuối truyện
xác định: “Đến ngày Tết vua lấy bánh này dâng
cúng cha mẹ. Thiên hạ bắt chước…”. Tục cúng
bánh chưng, bánh dày vào ngày Tết được mô tả từ
câu truyện này, về sau được xác tín là tập tục
ra đời từ thời Hùng Vương.
Nhưng Tết, xét từ
nguyên uỷ là lễ thức, lễ hội được tiến hành sau
mùa gặt hàng năm hay bắt đầu mùa gieo cấy. Thời
điểm này tùy thuộc vào điều kiện khí hậu và tập
quán canh tác của mỗi tộc người. Tết như vậy có
chức năng kép: tạ ơn thần linh và tổ tiên về kết
quả vụ mùa đã qua và cầu mong kết quả cho vụ mùa
năm tới. Nói chung, các cư dân nông nghiệp luôn
tiến hành một loạt nghi lễ theo các tiến trình
phát triển của cây lúa. Với những lễ vật tương
ứng.
- Lúa vừa chín
tới: lễ cúng ăn cốm.
- Lúa chín gặt:
lễ cúng cơm mới.
- Gặt xong đưa
vào kho: lễ mừng lúa mới, với lễ vật là các thứ
chế biến từ gạo tẻ và nếp như: cơm, xôi, bánh…
Cốm là lễ vật phổ
biến trong lễ cúng mừng lúa lúc đã cứng hạt. Cốm
là sản phẩm chế biến bằng cách rang lúa nếp, giã
cho dẹp lại và sàng sảy để bỏ trấu đi. Dữ liệu
của nhà dân tộc học Từ Chi viết về loại cơm chul
(cơm chùn), lễ vật trong dịp Ăn cơm mới của
người Mường, tuồng như đã hé mở cho chúng ta
biết về nguyên ủy của cốm: lúa gặt về còn ướt
sũng, không có thời gian phơi khô, mới được làm
thành lễ vật dâng cúng ngay để mọi người bắt tay
vào gặt. Chỉ còn một cách là đem “rang” (có hạt
bung ra) rồi giã nhẹ để tách vỏ. Gạo đó chế
thành cơm chul (4). Lúa nếp rang nở bung ra mà
người miền Bắc gọi là bỏng thì ở Trung Bộ (kể cả
Nam Bộ) gọi là nổ. Bánh nổ là lễ vật truyền
thống vào dịp Tết ở Trung Bộ, và nổ là lễ vật
bắt buộc trong nhiều đám cúng việc lề ở Nam Bộ.
Phải chăng đó là di duệ của cốm, và xa xưa hơn
là cơm chul?
Cơm là lễ vật bắt
buộc trong lễ cúng cơm mới của nhiều tộc người,
và cũng là lễ vật của nhiều lễ cúng khác. Tuy
nhiên, vì sự bình dị của nó mà cơm không được
người ta coi là lễ vật thực sự như xôi. Rõ ràng
trong nếp nghĩ phổ biến của nhiều tộc người, xôi
là lễ vật bởi nó phải có trong các cuộc lễ mà
hiếm hoi trong bữa ăn thường ngày. Gạo nếp quý
hiếm hơn gạo tẻ, và vì có hương thơm nên được
chọn làm lễ vật dâng cúng. Nói chung, gạo là
thức ăn chính của con người nên nó có ý nghĩa
thuộc về nghi lễ. Lúa gạo luôn được coi là có
nguồn gốc thiêng liêng, là hạt ngọc trời; nó
biểu trưng cho sự sung túc, sự sinh sản dồi dào,
nhờ trời mới có và sự thanh khiết nguyên sơ.
Người Thái đồ, nấu xôi có nhuộm màu: xôi đỏ
tượng trưng cho Mặt Trời, xôi vàng tượng trưng
cho Mặt Trăng (Tết Cầu mùa: Xíp Xì)(5). Người
Nùng làm xôi bảy màu để “tượng trưng cho chặng
đường lịch sử bảy tháng đầy ý nghĩa trong một
năm đất trời xoay chuyển, nhưng gắn liền với
lịch sử dân tộc” (mỗi màu tượng trưng một tháng,
từ tháng Giêng đến tháng Bảy)(6). Cơm cúng đơm
vào chén, bát, thậm chí còn nèn, gọi “chén cơm
in”. Còn xôi đơm ra đĩa hay mâm, phổ biến từ
“mâm xôi”, luôn gợi cho ta hình ảnh của một sự
vun cao lên tròn trịa và sung mãn, biểu thị cho
sự phồn thực.
Từ xôi đến bánh
dày chỉ là một bước ngắn: lấy xôi nếp giã nát ra
và vun lên thành mâm bánh dày. Loại bánh làm
bằng nếp như vậy vẫn là lễ vật “thanh khiết
nguyên sơ” như xôi. Với người Chăm, lễ vật trong
Tết Rija Nưga của họ có xôi, bỏng (nổ) và bánh
đúc(7). Với người Dao, trong Tết nhảy của họ có
lễ vật không thể thiếu là bánh bằng bột gạo nắn
tròn, treo tòng teng trên những cây mía đặt ở
gian giữa bàn thờ Bàn Vương(8). Đó là hai ví dụ
về hai loại bánh “tròn đầy”, thuộc thứ lễ vật
được chế biến bằng bột gạo có phần kỳ công hơn
bánh dày. Bánh dày không chỉ là đặc sản của
người Việt, mà nó còn là thứ lễ vật bắt buộc, đã
thành tục lệ trong văn hóa của nhiều tộc người.
Tết của người H'mông là một ví dụ: “Bánh dày là
hương vị không thể thiếu, một biểu tượng trên
bàn thờ tổ tiên trong ngày Tết của người H'mông”(9).
Ở người H'mông Hang Kia, Pà Cò cũng có truyền
thuyết suy nguyên về bánh dày của dân tộc mình.
Nội dung truyền thuyết hoàn toàn khác với sự
tích bánh chưng bánh dày của người Việt, mà chủ
ý là nói về nguồn gốc lúa nếp: ông Tổ người
Hmông lấy được từ xứ sở của người tí hon dưới
lòng đất, và hàng năm, người Hmông làm bánh dày
để tưởng nhớ tổ tiên và tạ ơn con chim đại bàng
đã cứu ông Tổ mình ngày xưa(10). Một tập tục
liên quan đến loại bánh dày này là trong mấy
ngày đầu năm phải ăn bánh dày trắng, tuyệt đối
không được nướng bánh dày. Nếu nướng, người
H'mông cho rằng năm đó nương rẫy sẽ bị hạn
hán(11). Điều này cho chúng ta thấy: bánh dày
theo quan niệm của người H'mông là biểu thị
nương rẫy, là đất, nói rộng ra là “không gian
sinh tồn” .
3. Nói chung,
bánh dày là một lễ vật được hình thành trong một
quá trình nhất định, khuôn theo một tâm thức
thuần khiết từ quan niệm thiêng về gạo (tẻ và
nếp) của cộng đồng các cư dân trồng / tỉa lúa.
Nó vừa là nhân vừa là quả của nền văn hóa lúa; ở
đó, nó là biểu tượng của tín lý phồn thực hơn là
tín lý tư biện về vũ trụ. Điều này cũng có phần
tương tự đối với cái bánh chưng.
Xét về chất lượng,
nội dung thì bánh chưng và bánh tét là một,
chúng chỉ khác nhau ở hình thức: một là hình
vuông và một là hình ống-dài.
Rảo qua các dữ
liệu dân tộc học, chúng ta thấy bánh chưng có ở
người Việt miền Bắc, người Mường (gọi là pênh
pang), người Thái (gọi là kháu tốm kích), người
Tày, người Khmú (gần như bánh chưng tròn của
người Tày)…
Bánh tét có ở
người Việt miền Trung, miền Nam, người Thái (cũng
có bánh tét gọi là kháu tốm boóng cựa), người
Hrê (gọi là bánh mau nhich), người Kadong, người
Xinh mun… (12).
Có thể nói, bánh
chưng và bánh tét cùng tồn tại trong đại gia
đình các dân tộc ở nước ta, thậm chí cụ thể ngay
trong từng tộc người (Thái, Việt…). Vấn đề đặt
ra là tại sao cùng là một thứ chất liệu mà gói
theo hai kiểu (thậm chí là ba kiểu - nếu kể thêm
bánh ú, gói theo kiểu bánh ít “nóc chùa”) để làm
gì, và kiểu nào ra đời trước?
Bánh chưng được
gói theo hình vuông, tượng trưng cho trời (Lĩnh
Nam chích quái). Bánh tét gói theo hình ống,
tròn, dài, biểu tượng sinh thực khí nam, bản
nguyên sức mạnh của sự sinh sản(13). Trong thời
gian điền dã ở vùng Khmer Nam Bộ, tôi được một
vị à-cha (thầy lễ) nói nhỏ vào tai rằng bánh tét
là “cái đó của Preah Ầy-Xô” (Preah Ầy-xô là thần
Siva).
Bánh tét là một
lễ vật được làm theo tín lý phồn thực của cư dân
nông nghiệp, cụ thể là cư dân cấy (tỉa) lúa (nếp).
Phải chăng, tín lý phồn thực có tuổi đời cổ xưa
hơn quan niệm về “trời tròn đất vuông” của sự
tích bánh dày và bánh chưng?...
Huỳnh Ngọc Trảng
(theo Văn hóa Phật giáo)
Chú thích:
(1) Vũ
Quỳnh - Kiều Phú, Lĩnh nam chích quái, Đinh Gia
Khánh chủ biên, Nguyễn Ngọc San biên khảo-giới
thiệu, In lần thứ hai. NXB Văn Học, H., 1990,
tr. 56-58.
(2)
Việc này được nói trong nhiều sách vở. Ở đây,
xin xem:
- Thời cổ Trung Quốc có những lý luận chủ yếu
nào về vũ trụ, trong sách Lịch sử văn hóa Trung
Quốc, NXB Cổ Tịch Thượng Hải (Bản dịch của Trần
Ngọc Thuận, Đào Duy Đạt, Đào Phương Chi, NXB Văn
Hóa Thông Tin, H; 1999, tập II, tr. 110-114.
- Tiêu
Mạc, Kiến trúc Trung Quốc, Tủ sách Văn hóa Nghệ
thuật Trung Quốc (Bản dịch của Mai Chi, NXB Thế
giới, H, 2002).
(3) Lý Tế Xuyên, Việt điện u linh, Bản dịch của
Trịnh Đình Rư, NXB Văn học, H, 1972, tr. 47 (truyện
Thiên tổ địa chủ xã tắc đế quân); tr 81-82 (truyện
Ứng thiên hóa dục nguyên trung hậu thổ điạ kỳ
nguyên quân).
(4)
Trần Từ, Người Mường ở Hoà Bình, Hội KHLS, H,
1996, tr. 193; 341. (phụ chú P1)
(5) Vũ
Thị Hoa, Lễ hội cầu mùa của người Thái ở Tây Bắc
Việt Nam, NXB VHTT, H, 1997, tr. 88-89.
(6)
Trần Hữu Sơn (chủ biên), Lễ hội cổ truyền Lào
Cai, NXB Văn hóa Dân tộc, H; 1999, tr. 84-85.
(7) Ngô
Văn Doanh, Tết năm mới cổ truyền của người Chăm
(lễ hội Rija Nưgar), trong Tết năm mới ở Việt
Nam, NXB VHTT, H; 1999, tr. 141.
(8)
Nguyễn Hữu Thức, Xuân Tết với ngưới Dao Đeo Tiền
(Hòa Bình), trong Tết năm mới ở Việt Nam, sđd,
tr. 151.
(9)
(10) Nguyễn Hữu Thức, Tết cổ truyền của người
Hmông tỉnh Hoà Bình, sđd, tr. 171-172.
(11)
Nguyễn Hữu Thức, bài đã dẫn, tr 184.
(12) Chúng tôi dựa vào và đối chiếu từ các dữ
liệu của một số sách, bài báo đã công bố. Ở vấn
đề này, xem Vũ Thị Hoa, sđd, phần người Thái
(tr. 75-76) và phần phụ lục (tr. 171-275).
(13)
Xem J. Chevalier và A. Gheerbrant, Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng, 1997, tr.
92; 265; 534-538; 778-779.


|