Nén Nhang Ngày Tết
Hoàng Công Danh
Hỏi ngày Tết,
người ta nhớ về cái gì đầu tiên? Có thể anh chị
sẽ không trả lời, hoặc vô tình hoặc cố ý; nhưng
chắc chắn trong thẳm sâu tiềm thức và bật dậy
trước nhất phải là một nén nhang thắp lên ngọn
khói thiêng liêng.
Tôi đang ở xa quê,
đôi khi muốn cố ý quên đi để giấu cái nhớ lắng
xuống, nhưng ngọn khói kia cứ lôi tôi dậy. Và
không thể nào quên được, mãi mãi, tôi tin thế!
Ông nội đã dạy
cho tôi cách thắp nhang từ rất sớm. Khi đó tay
tôi vói chưa tới cái lư hương trên bàn thờ, phải
kê thêm cái ghế mới được. Nhưng mà thích, không
hiểu vì sao thích, chỉ biết mỗi lần cắm cây
nhang vào lư là như thấy mình được lớn thêm vậy.
Mới đầu phải đi khắp ba cái bàn thờ để đếm số lư
hương. Lần sau thì đã nhớ, cứ rút thẻ nhang mười
chừa lại một cây là vừa. Tất thể nhà mình có tám
lư hương, thêm ngoài trời một cây nữa là chín.
Cuối năm có lệ
phải thay cát trong bát nhang. Cát trắng từ Rú
Tường Vân người ta đem lên bán rất nhiều ngoài
chợ Thuận. Cuối năm đi chợ chơi, thích đứng nhìn
những mủng cát trắng đặt dọc đường; bâng khuâng
nhớ cái truyện ngắn “Chú bé bán cát” của Hoàng
Thái Sơn, hồi nhỏ nghe được qua radio. Mua cát
về, thỉnh lư hương xuống lau chùi sạch sẽ. Dùng
một mẩu bìa cát-tông khoanh tròn bằng miệng lư,
ở giữa cắt thủng một lỗ nhỏ để cắm hương. Chân
nhang thắp quanh năm nhiều, phải nhổ đi bớt, chỉ
chừa lại ba chân, số còn lại đem phát hỏa.
Sáng ba mươi Tết,
anh em tôi vác cuốc chổi xuống cồn Mai để dọn
dẹp quét tước lại lăng mộ tổ tiên. Người ta sống,
cứ thích trang trí nhà cửa cho đẹp cho sang để
đón Tết, nhưng đôi khi lại quên đi việc làm ý
nghĩa hiếu đạo này. Sau bữa cơm tất niên cuối
năm, ông nội dắt tôi xuống cồn đất làng để thắp
nhang. Con đường men qua những ngôi mộ cỏ may
thiu thiu buồn, hình như cỏ may cũng đang đứng
nghiêm làm nhang cho những ngôi mộ vô chủ. Cứ
đến ngôi mộ nào ông cũng nói về người nằm ở dưới;
đây là cụ Cố, hay chữ lắm; kia là cụ Cao, đức độ
tài trí... Dòng họ Hoàng Công nhà mình xưa thông
minh sáng dạ chăm học, nhưng do chiến tranh lưu
lạc nên sau này thất học cả. Ông nói, năng đi
thắp nhang sẽ được tổ tiên phù hộ cho đường học
hành. Từ đó việc đi thắp nhang dưới cồn, ngoài
việc hiếu đạo còn là để cầu mong ông bà phù hộ.
Đi với ông độ ba lần là tôi thuộc hết vị trí mồ
mả nhà mình. Những lần sau ông ủy thác việc này
cho tôi đi cùng với mấy đứa em.
Ngày nhỏ chúng
tôi rất nghịch nên nhiều lần dùng nhang để đi
dọa ma, tiếng Quảng Trị gọi là “đi trến ma”. Ban
đêm, thắp một cây nhang rồi núp trong bụi. Thấy
người nào đi tới thì đưa đầu nhang đỏ lửa vào
miệng, cắn hai hàm răng vào cây nhang rồi khừ
một tiếng cho hơi trong cổ phát ra. Khi đó ánh
lửa đầu nhang đỏ rực lên tạo thành một cục lửa
hồng, cùng với tiếng kêu gió y hệt là ma. Đêm ba
mươi Tết trời tối như bưng mà dọa ma là người ta
khiếp hồn khiếp vía, cứ tưởng cuối năm ma về ăn
Tết.
Sắp đến giao thừa,
bà nội bày mâm ra giữa trời, đặt lên đó hoa quả,
ít bánh trái và một chén muối. Đại ý chén muối
là để cầu mong anh em trong nhà bà con làng xóm
sống mặn mà với nhau, như câu “đầu năm mua muối
cuối năm mua vôi”. Một chén gạo dùng làm bát
nhang. Khi đó ông nội mặc áo dài đen chít khăn
đóng, rút một thẻ nhang thắp lên đỏ rồi đứng
giữa trời mà khấn thầm những lời mời tổ tiên về
ăn Tết cùng con cháu, lời cầu mong sự ấm êm
trong năm mới... Tôi đứng bên hầu nước, ngọn gió
giao mùa thổi nhẹ làm khói nhang bay vào mắt xao
xuyến!
Ba ngày Tết bàn
thờ rạng đèn, nhang khói không được để lạnh ngắt
một phút nào. Vậy nên ngày Tết nhất thiết phải
có người ở nhà tiếp khách và trực nhang trên bàn
thờ. Sáng mùng một, thức dậy thắp hết một lượt
nhang ở nhà, tôi lại cùng ông mệ nội lên chùa.
Đầu năm lên chùa gọi là mừng tuổi Phật. Cắm
nhang lên bàn thờ Phật xong, bác chủ lễ thỉnh
một hồi chuông cho mọi người vái các Ngài. Ở
chính giữa là Đức Bổn Sư Thích Ca, bên phải là
Ngài Địa Tạng, bên trái là Quán Thế Âm Bồ tát...
Đầu năm lên chùa gặp bác chủ lễ bao giờ tôi cũng
được nghe những câu chuyện hay và ý nghĩa,
chuyện đời chuyện đạo...
Cạnh chùa làng có
cô Sương làm nghề hương. Cô Sương bị điếc, ai
nói chi chẳng nghe, cứ cặm cụi suốt ngày nhồi
bột cưa lăn lăn ra những cây nhang nhỏ rồi đem
phơi ở sân chùa. Ngày nhỏ tôi thích lên nhà xem
cô làm nhang. Cô bày cho cách lăn nhang quanh
nan tre, nhưng chẳng bao giờ tôi làm được. Thế
là chỉ biết ngồi nhìn và phụ cô dán bao giấy
xung quanh ốp nhang thôi. Những lần đó hai bàn
tay đỏ kè vì màu giấy bọc nhang thấm ra, nhưng
mà thích lắm! Sân chùa vào tháng chạp rợp kín
những tấm phên kê lên tầm ngực, trên đó rải
nhang vừa lăn xong. Mùi bột hương lan khắp xóm.
Nghe đâu làm nghề nhang cũng ảnh hưởng đến sức
khỏe vì cái mùi bột rất độc. Tôi chẳng cần biết
nó đúng đến đâu, nhưng trông cô Sương vẫn mạnh
khoẻ như thường. Cô nói làm nghề nhang là làm
việc hiếu đạo, ông bà phù hộ chớ răng mà độc hại
được.
Sau này có nhang
điện, chẳng hiểu vì sao bà con ta lại mua thứ đó
về cắm lên bàn thờ, không có khói có mùi gì cả.
Ai thắp cứ thắp, nhưng nhà tôi nhất quyết không
dùng. Tại
sao lại cứ phải hiện đại (?) khi mà tổ tiên ta
bao đời nay dùng nén nhang khói thơm để thể hiện
lòng thành. Nhẽ nào đến cả tấm lòng cũng phải...
hiện đại hóa?
Tết năm ngoái ở
bên này, chúng tôi đi chợ của người Việt, mua
được xấp giấy tờ vàng mã và nén nhang, mừng hơn
cả được tiền. Đêm gần Tết nấu xôi chè, kê bàn
học làm mâm cỗ, thắp nén nhang như để vọng tưởng
về quê nhà tổ tiên xa xôi. Trong phòng có cái
máy phát hiện khói thuốc lá, vậy là chúng tôi gỡ
ra, khóa phòng lại và thắp nhang. Ở xa nhìn nén
nhang bùi ngùi lắm! Năm nay lại không về được,
thêm một cái Tết Cổ truyền xa nhà. Chợt có ngọn
khói nào bay về từ những ngày xưa...
Hoàng Công Danh
(theo Phật Tử Việt Nam)

|