Nụ cười của Phật
Thị Giới

Cây đào trước sân
đã trụi lá chỉ còn những cành trơ. Ở đây không
có Tết trong không gian, nhưng Tết vẫn đến trong
thời gian. Nhưng hình như trong sâu thẳm của mỗi
người, phải hội đủ cả không gian và thời gian
thì mới ra Tết, mới có sự cảm nhận về Tết.
Ở trong nước, để
chuẩn bị cho Tết, trước đó người ta tước lá cho
mai, săn sóc cho cúc để hoa nở đúng thời gian. Ở
đây, người ta dùng mai giả, anh đào giả… để tạo
ra một không gian Tết. Người ta chuẩn bị để có
một sự tương giao trọn vẹn giữa không gian và
thời gian trong ngày Tết. Có cả thời gian và
không gian, sự việc mới tròn đầy, viên mãn. Và
con người thì luôn luôn đi tìm cái tròn đầy, cái
toàn thể, khi có cơ hội. Và Tết là một cơ hội.
Ở chỗ giao hội
giữa không gian và thời gian đó, con người cảm
nhận được sự kết nối. Sự kết nối giữa người với
người, với cỏ cây, với đất trời, và sự kết nối
không cùng giữa vạn vật.
Chỗ giao hội đó
thể hiện trong một nụ cười an lành, tự tại, kết
nối, bao dung. Đó là nụ cười của Đức Di Lặc,
cũng là nụ cười của tất cả chư Phật, chư Tổ. Đối
với người Phật tử, ngày Tết cũng là ngày vía Đức
Di Lặc. Và nụ cười của Ngài là ngón tay chỉ mặt
trăng, là công án cho chúng ta tìm thấy mùa Xuân
chân thật, mùa Xuân tiềm tàng sẵn có nơi tất cả
chúng ta.
Từ nụ cười của
Đức Bổn Sư
Hai lần trao
truyền hai pháp môn quan trọng là hai lần chúng
ta thấy kinh điển đề cập đến nụ cười của Đức Bổn
Sư. Một lần khi Ngài trao truyền pháp môn Tịnh
độ cho hoàng hậu Vi Đề Hi (Vaideli), vợ của vua
Tần Bà Sa La (Bimbisàra), và một lần khi Ngài
trao truyền Tâm ấn Thiền cho ngài Ma Ha Ca Diếp
(Mahàkàsyapa.)
Về lần Ngài
truyền pháp môn Tịnh độ, trong Quán Kinh có đoạn:
“Ðức Thế Tôn phóng ánh sáng giữa hai mày, ánh
sáng ấy màu chơn kim, chiếu khắp mười phương vô
lượng thế giới, trở về trụ tại đỉnh đầu Phật,
hóa làm đài chơn kim lớn như núi Tu Di, bao
nhiêu quốc độ thanh tịnh vi diệu của mười phương
chư Phật đều hiện rõ trong đài vàng ấy.
Hoặc có quốc độ
thất bửu hiệp thành. Hoặc có quốc độ thuần là
liên hoa. Lại có quốc độ như tự tại Thiên cung.
Lại có quốc độ như gương pha lê. Có vô lượng
quốc độ chư Phật như vậy trang nghiêm xinh đẹp,
khiến Vi Ðề Hi được thấy.
Vi Ðề Hi bạch
Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Dầu các Phật độ ấy
đều thanh tịnh đều có quang minh. Nay tôi thích
sanh về Cực Lạc thế giới, chỗ của Đức Phật A Di
Ðà. Duy nguyện Đức Thế Tôn dạy tôi tư duy, dạy
tôi chánh thọ".
Ðức Thế Tôn liền
mỉm cười, có ánh sáng ngũ sắc từ miệng Phật
phóng ra, mỗi mỗi ánh sáng chiếu đỉnh đầu vua
Tần Bà Sa La.
Dầu bị giam cầm
ngục tối, tâm nhãn vua không chướng ngại, xa
thấy Đức Thế Tôn, vua đầu mặt lạy Phật, tự nhiên
tăng tiến đạo lực thành bậc A Na Hàm.
(Kinh Quán Vô
Lượng Thọ - HT.Thích Trí Tịnh dịch)
Khi đọc Quán Kinh,
thường chúng ta không để ý đến nụ cười của Đức
Phật. Có thể hoàng hậu Vi Đề Hi cũng không hiểu
nụ cười đó của Đức Phật, nhưng chắc chắn vua Tần
Bà Sa La đã hiểu. Ngay sau khi nhìn thấy Đức Thế
Tôn với ánh sáng phóng ra từ miệng đang mỉm cười,
ông liền chứng quả A Na Hàm, một quả vị giải
thoát không tái sanh lại trong thế gian.
Nụ cười đó là nụ
cười đem con người từ khổ đau đến an vui, đem
con người ra khỏi ngục tù để đi vào một đời sống
tự do thênh thang. Đó là nụ cười chứa đầy ánh
sáng, thứ ánh sáng có thể nhổ sạch những vướng
mắc, khổ đau, xóa sạch những tối tăm, bất tịnh.
Ánh sáng đó mở ra
một thế giới thanh tịnh, một thế giới không còn
ngăn ngại. Dầu bị giam cầm ngục tối, tâm nhãn
vua không chướng ngại, vẫn xa thấy Đức Thế Tôn.
Đó là thế giới mà vạn pháp kết nối và dung thông
nhau, một thế giới không còn giới hạn vào không
gian và thời gian, ở đó không gian và thời gian
là một. Thế giới đó chỉ có thể tỏ bày bằng sự im
lặng hay một nụ cười.
Theo truyền thống
Thiền, một hôm trong Pháp hội ở Linh Sơn, Đức
Phật đưa lên một cành hoa sen trước đại chúng,
miệng mỉm cười. Tất cả đại chúng đều yên lặng
ngơ ngác. Khi đó chỉ có ngài Ca Diếp nhìn Phật
mỉm cười. Đức Phật nói: “Ta có Chánh pháp nhãn
tạng, Niết bàn diệu tâm, nay trao cho Ma Ha Ca
Diếp”.
Chánh pháp nhãn
tạng, Niết bàn diệu tâm là mục đích cứu cánh của
Thiền nói riêng và của Phật giáo nói chung.
Nhưng đó cũng là cái mà chúng ta đang sống từng
phút giây trong đó mà không hề hay biết. Và khi
nào chúng ta nhận ra được cái đó là lúc chúng ta
thật sự nhìn thấy không gian và thời gian. Hoa
sen và nụ cười, đó là không gian và thời gian.
Đó là lúc con người dừng lại thời gian là tâm
thức để là một với không gian là hoa sen. Không
gian và thời gian gặp nhau và dừng lại ở chỗ đó,
ở nụ cười của Đức Phật, của ngài Ma Ha Ca Diếp.
Khi không gian và thời gian là một thì cũng
không còn không gian và thời gian. Đó là Chánh
pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm. Chánh pháp
nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm là một cái toàn thể,
một sự việc hiện ra riêng rẽ thì có trước có sau,
có chỗ này có chỗ kia, có tốt có xấu. Nhưng cái
toàn thể thì vượt ra ngoài những tính chất đó,
vượt ra ngoài không gian và thời gian.
Hai lần mỉm cười
của Đức Phật mang cùng một ý nghĩa. Đó là ý
nghĩa của hy vọng và giải thoát. Hy vọng là
hướng về một tương lai không phải là bây giờ,
giải thoát là hướng về một nơi chốn không phải
là ở đây. Nụ cười của Đức Phật làm cho hy vọng
đơm hoa ngay bây giờ và giải thoát kết trái ngay
nơi đây.
Đứng trước sự vô
thường và khổ đau, con người mong cầu một cái gì
vĩnh cửu và không khổ đau. Nhưng khi vẫn còn
sống trong dòng thời gian không ngừng trôi thì
không gian sẽ vẫn còn đổi thay, biến dịch. Lúc
đó sẽ không có bình an và hạnh phúc. Chỉ khi nào
thời gian không còn tách rời với không gian, khi
nào con người nắm bắt được cái hiện tại, nhìn
thấy được cái khoảng cách giữa hai khoảnh khắc
của thời gian hay giữa hai niệm tưởng tiếp nối,
khi đó mới có bình an, hạnh phúc, khi đó chúng
ta mới đón nhận được nụ cười của Đức Phật và tự
mình mới có thể chân thật mỉm cười.
Đó là niềm ước
vọng ngàn đời của con người. Và ngày Tết trong
một ý nghĩa nào đó nói lên cái ước vọng dừng lại
ngàn đời đó.
Đến nụ cười của
Ngài Di Lặc
Từ Thị hay Di Lặc
tiếng Phạn là Maitreya là vị Bồ tát được Đức
Thích Ca Mâu Ni thọ ký sẽ thành Phật trong thế
giới này kế sau Ngài.
Theo giáo lý Nam
truyền cũng như Bắc truyền, trú xứ hiện tại của
Đức Di Lặc là cung trời Đâu Suất, và Ngài sẽ ra
đời chứng quả Vô thượng Chánh giác để hóa độ
trời và người khi giáo pháp của Đức Thích Ca
không còn dấu vết trên thế gian.
Trong khoảng thời
gian đến khi chứng quả Phật, Đức Di Lặc vẫn theo
dõi và thủ hộ thế gian. Một phần trong việc thủ
hộ thế gian của Ngài là thường xuất hiện trong
thế gian dưới nhiều hình thức để dẫn dắt chúng
sanh thăng tiến theo hướng chân chính.
Vì hạnh nguyện
của Ngài và niềm hy vọng của thế gian về sự xuất
hiện của Ngài, Ngài thường được tôn thờ như một
vị Phật. Bồ tát Long Thọ, vị Tổ của giáo lý
Trung Quán, nói rằng sự thờ kính Đức Di Lặc là
một con đường dễ dàng dẫn đến giác ngộ bằng tha
lực.
Trong Phật giáo,
chúng ta thường có cụm từ “Xuân Di Lặc.” Xuân Di
Lặc là Xuân an vui, như hình ảnh của Đức Di Lặc
lúc nào cũng tươi cười thong dong trong thế giới
của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Kinh Pháp
Hoa nói: “…Trong hàng tám trăm người đệ tử có
một người tên Cầu Danh, người này tham ưa danh
lợi, dầu cũng đọc tụng kinh mà chẳng thuộc rành,
phần nhiều quên mất nên gọi là Cầu Danh. Người
này cũng do có trồng các nhơn duyên căn lành nên
đặng gặp vô lượng trăm nghìn muôn ức Đức Phật mà
cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Di
Lặc nên biết! Lúc đó Diệu Quang Bồ tát đâu phải
người nào lạ, chính là ta (Văn Thù) đấy. Còn Cầu
Danh Bồ tát chính là ngài đấy…”
(Kinh Pháp Hoa -
Phẩm Tựa)
Đó là sự hòa nhập
trong thế gian, xúc chạm với thế gian. Nếu không
có sự hòa nhập đó, không có sự xúc chạm đó, Ngài
đã không được Đức Thích Ca Mâu Ni thọ ký cho sẽ
thành Phật tiếp sau Ngài. Hòa nhập mà không hòa
nhập, xúc chạm mà rời xúc chạm. Đó là nụ cười
vừa từ bi vừa trí tuệ, vừa ôm vạn pháp trong
lòng vừa biết rằng các pháp là không thật, không
có tự tánh.
Thiền sư Đàm Cứu
Chỉ thời Lý viết: “Thấu rõ chúng sanh chỉ là một
pháp, chứ không phải hai. Không bỏ nghiệp cảnh
đó là phương tiện thiện xảo. [Như thế] thì ở
trong thế giới hữu vi mà chỉ rõ được pháp hữu vi
và không phân biệt với tướng vô vi. Đó là vì
muốn dứt bỏ mọi vọng niệm, mọi sự phân biệt mà
thôi.” (Tâm Pháp - Băng Thanh dịch.)
Có người hỏi Tuệ
Trung Thượng Sĩ:
- Dật Đa (Di Lặc)
không tu định huệ, tại sao vẫn thành Phật?
Sư đáp:
Đào thắm trên cây
thời tiết đúng
Cúc vàng bên giậu
chẳng là Xuân!
(Hồng đào thụ
thượng chân thời tiết
Hồng cúc ly biên
bất thị Xuân).
(Thượng Sĩ Ngữ
Lục)
Nụ cười của Đức
Di Lặc chỉ cho chúng ta thấy rằng đào thắm, cúc
vàng, thời tiết chẳng làm nên được mùa Xuân. Mùa
Xuân vốn có sẵn trong pháp giới cũng như trong
tâm của mọi người. Mùa Xuân đó không ở trong
không gian hay thời gian. Nó vốn có sẵn nhưng
chỉ được nhìn thấy và sống với khi có thể dừng
lại ngay trong dòng biến dịch của thời gian để
thấy được phút giây hiện tại, phút giây chứa
đựng cả không gian và thời gian, là chỗ mà không
gian và thời gian gặp nhau, chỗ mà trong thâm
sâu của tâm thức, con người muốn đi tìm trong
ngày Tết. Đó là Phật tánh tiềm ẩn trong mọi
chúng sanh.
Trong
Uttaratantra, Đức Di Lặc mặc khải cho ngài Vô
Trước giáo lý Phật tánh có sẵn trong tâm của mọi
chúng sanh, có đoạn sau đây:
Bảo tàng nằm dưới
nền nhà của kẻ nghèo khó
Nhưng vì y không
biết có bảo tàng
Nên không biết
rằng mình là người giàu có.
Cũng thế, trong
tâm mỗi người đều có sẵn chân lý bất hoại
Nhưng vì không
thấy được nó,
Con người trôi
theo dòng đau khổ không ngừng.
Bảo tàng nằm dưới
nền nhà của kẻ nghèo khó
Y không nói rằng
mình có một kho bảo tàng
Vì y không biết
nó.
Cũng thế, kho
tàng chân lý nằm trong căn nhà tâm,
Nhưng con người
sống nghèo nàn vì thiếu nó.
Do đó người nhìn
thấy sinh ra và sống thanh tịnh trong thế gian
Để mở bày kho bảo
tàng vốn sẵn đó.
Đức Di Lặc là
đấng đang và sẽ mở bày kho bảo tàng vốn sẵn đó.
Ngài đi trong khắp thế gian để chuẩn bị cho sự
thành tựu lớn của thế gian trong tương lai.
Kinh Di Lặc
Thượng Sanh nói: “Không khởi tu thiền định,
không vọng trừ phiền não. Phật thọ ký cho người
này thành Phật không nghi”.
Học sĩ Trần Tú
Ngọc có lần hỏi Tổ Vạn Tùng rằng: “Ðức Di Lặc Bồ
Tát vì sao chẳng tu thiền định, chẳng dứt trừ
phiền não?”. Tổ Tùng đáp: “Chân tâm vốn tịnh,
nên chẳng tu thiền định. Vọng tưởng vốn không,
nên chẳng dứt lìa phiền não”. Học sĩ lại đem câu
này hỏi ngài Hương Sơn Ðại Nhuận Hòa thượng.
Ngài đáp: “Tâm Thiền vốn định, chẳng trở lại tu.
Phiền não tịch diệt, chẳng cần lại đoạn”.
Học sĩ lại đem
hỏi ngài Trúc Lâm Hải Cự Xuyên. Tổ Xuyên đáp:
“Vốn không có thiền định, phiền não!”.
Học sĩ nói: “Chỉ
có thế này mới khoái!”.
(Kinh Lăng Nghiêm
Tông Thông)
Hình ảnh Đức Di
Lặc mà người Trung Hoa và Việt Nam hay thờ là
hình ảnh của một vị Thiền sư tên là Bố Đại (Bố
Đại Hòa thượng). Tương truyền Ngài là một hóa
thân của Đức Di Lặc. Khi sắp tịch, Ngài ngồi
ngay thẳng trên bàn thạch dưới đông lang ở chùa
Nhạc Lâm, nói bài kệ:
Di Lặc chơn Di
Lặc
Hóa thân thiên
bách ức
Thời thời thị
thời nhơn
Thời nhơn giai
bất thức.
(Di Lặc thật Di
Lặc
Phân thân nghìn
trăm ức
Luôn luôn chỉ dạy
người
Người đời không
tự biết).
Theo Priyanshu
Shrivastava, những ý tưởng về hình tượng của
Phật Di Lặc xuất phát từ những tin tưởng về sau
của người Phật tử rằng đời sống tốt đẹp và xứng
ý có thể đạt được trong thế gian này. Nó có thể
có được qua việc sống một đời sống đơn giản, cố
gắng chân chính, lòng rộng lượng và sự hiểu biết.
Nụ cười của Phật
cũng nói lên cái nhìn vào thế gian bằng cái nhìn
hài hước. Nụ cười hài hước không mâu thuẫn với
nụ cười bao dung. Khi nhìn từ cái toàn thể, thấy
con người cũng đầy đủ tánh Phật lại lăng xăng
trong những cái đối kháng nhau, miệt mài với
những mảnh vụn không thật, thật đáng cười mà
cũng đáng yêu biết mấy.
Tuy nhiên, hình
ảnh Đức Di Lặc bụng lớn miệng cười xề xòa đã bị
thế gian hóa nặng nề theo thời gian và càng ngày
càng bớt đi sự truyền cảm.
Theo niềm tin của
người Trung Hoa, hình ảnh Đức Phật cười có thể
đem đến sự may mắn, thành công, hạnh phúc, mãn
nguyện, sung túc và giàu có. Qua thời gian, hình
ảnh Phật giáo bị người Trung Hoa làm pha trộn
bằng những lý tưởng Trung Hoa về đời sống và sự
hạnh phúc. Sự pha trộn đó đã làm lệch lạc những
lý tưởng và giá trị nguyên thủy của Phật giáo.
Và ngày nay, hạnh phúc đã trở thành đồng nghĩa
với sự giàu có về vật chất. Hình ảnh Đức Phật Di
Lặc trở thành một vị thần được sùng bái với hy
vọng có được của cải dồi dào và cuộc sống may
mắn. Hình tượng Đức Phật Di Lặc bị đồng hóa với
“ông địa” trong tín ngưỡng dân gian của Trung
Hoa.
Trong thời buổi
mà vật chất đang đè bẹp con người, chúng ta nên
trở về tìm lại nụ cười nguyên sơ của Đức Di Lặc,
cũng là nụ cười của tất cả chư Phật. Về hình
tướng, chúng ta nên trở về với hình ảnh truyền
thống của Ngài còn tồn tại ở Ấn Độ và Tây Tạng.
Tóm lại, Đức Phật
Di Lặc là Đức Phật của tương lai, là niềm hy
vọng cho tương lai. Niềm hy vọng này được xây
dựng ngay từ bây giờ, bằng hạnh phúc và an lạc
ngay bây giờ và ở đây. Hạnh phúc hiện tại sẽ là
nền tảng cho hạnh phúc tương lai. Sống trong mùa
Xuân hiện tại là để thành tựu cho một mùa Xuân
lớn trong tương lai.
Nụ cười của tiền
nhân
Cư Trần Lạc Đạo
Phú của Trần Nhân Tông có đoạn:
Biết vậy !
Miễn được lòng
rồi
Chẳng còn phép
khác
Gìn tính sáng
tính mới hầu an
Nén niềm vọng
niềm dừng chẳng thác
Dứt trừ nhân ngã
thời ra tướng báu kim cương
Dừng hết tham sân
mới lảu lòng mầu viên giác
Tịnh độ là lòng
trong sạch chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tính
sáng soi mựa phải nhọc tìm về Cực lạc …
Các Thiền sư Việt
Nam thường dùng hình ảnh mùa Xuân để diễn tả tâm
an lạc của giác ngộ, cái tâm luôn mới mẻ, luôn
tràn đầy. Vua Trần Nhân Tông dùng chữ "được lòng"
để nói lên trạng thái tâm cảnh nhứt như đó. Và
đó là nụ cười của Thiền sư Giác Hoàng.
"Được lòng" có
nghĩa là được tâm, thấy được Phật tánh, pháp
thân. Đó là thấy được nền tảng thanh tịnh và
trong sáng bản nhiên của vạn pháp, thấy được sự
kết nối trùng trùng duyên khởi, luôn luôn biến
dịch nhưng luôn luôn hòa điệu của pháp giới.
"Được lòng" trong
tiếng Việt có nghĩa là được cả tâm mình lẫn tâm
người. Cái tâm được cả mình và người là cái tâm
phổ quát, nguyên sơ. Tâm đó là tâm Phật. Khi
được tâm mình mà không được tâm người thì có
nghĩa là chưa đủ, chưa trọn vẹn, hay chưa đúng.
Một dấu hiệu của sự "được lòng" hay giác ngộ là
thấy rằng chúng ta và tất cả mọi người đều bình
đẳng, đều như nhau trong nền tảng của sự sống;
rằng chúng ta và mọi người, mọi loài có sự kết
nối không thể tháo gỡ trong bản thể của chúng ta
và của mọi sự vật; tất cả chúng ta đều cùng tròn
đủ tánh Phật. Sự kết nối với con người, với vạn
vật đó được Thiền Sư Mãn Giác nói lên qua hình
ảnh một cành mai, được Trần Nhân Tông nói lên
qua hình ảnh một đóa hồng đang rơi, hay hình ảnh
hai người cùng đứng lặng chìm mình trong thiên
nhiên. Nhìn thấy sự kết nối của mọi sự mọi vật
đó là nhìn thấy bản chất của sự sống, là dứt trừ
nhơn -ngã. “Đó là cái thấy không phân ly, một là
tất cả và tất cả là một, ngay ở đây và bây giờ.
Đó là cái thấy không ta, không người, không
chúng sanh, không người thọ, đồng thời cũng là
cảnh giới Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Đó là tâm, tâm
Phật cũng là tâm của tất cả chúng sanh.”
"Được lòng" trong
ngôn ngữ Việt Nam còn nói lên sự thỏa mãn trọn
vẹn. Sự thỏa mãn trọn vẹn đó là niềm vui dàn
trải từ bên trong đến bên ngoài. Niềm vui đó là
sự "được lòng", là nắm được cái nền tảng, cái
cốt tủy của đời sống.
Như vậy "được
lòng" có nghĩa là sống trong pháp tánh, trong sơ
tâm, thấy rõ không qua suy luận tánh vô ngã rỗng
rang của mỗi chúng ta và người khác, đồng thời
cũng thấy rõ rằng chúng ta và mọi người, mọi
loài đều có sự kết nối trong nhau.
Đạo Phật là đạo
của niềm vui. Người Phật tử là người biết yêu
mến cuộc sống. Nói như Thanissaro Bhikkhu, “Đức
Phật không bao giờ đòi hỏi chúng ta đóng khung
tâm thức trong việc phủ nhận thế gian hay khẳng
định thế gian. Ngài muốn chúng ta khám phá thế
gian” (Niềm vui tinh tấn). Đời sống là môi
trường, là phòng thí nghiệm để chúng ta khám phá
sự sống, khám phá ra rằng chính đời sống là một
bảo tàng. Từ đời sống chúng ta khám phá ra niềm
vui, ra cái "được lòng". Niềm vui đó, cái "được
lòng" đó chỉ có thể thành tựu trong sự hợp nhứt,
trong cái toàn thể. Và sự thành tựu đó chỉ xảy
ra trong sự giao hội hài hòa giữa không gian và
thời gian.
Thiền sư Mãn Giác
thời Lý có bài kệ Thị tịch:
Xuân khứ bách hoa
lạc
Xuân đáo bách hoa
khai
Sự trục nhãn tiền
quá
Lão tòng đầu
thượng lai
Mạc vị xuân tàn
hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ
nhất chi mai.
(Xuân đi trăm hoa
rụng
Xuân đến trăm hoa
tươi
Việc đời qua
trước mắt
Trên đầu già đến
rồi.
Đừng bảo Xuân tàn
hoa rụng hết
Đêm qua sân trước
một cành mai).
Đó là không gian
không ngăn cách và thời gian không hạn cuộc. Đêm
qua sân trước là thời gian và không gian. “Một
cành mai” là cái xúc tác để thời gian của “đêm
qua” và không gian của “sân trước” được hiển bày
trong sự hợp nhứt, trong cái toàn thể. Nếu không
có một cành mai thì đêm qua sân trước vẫn là đêm
qua sân trước, vẫn là một toàn thể hợp nhất của
không gian và thời gian. Và khi bắt được thời
gian và không gian đó, nhận ra được khuôn mặt
thật của mùa Xuân, cũng là khuôn mặt thật của
bốn mùa Xuân, Hạ, Thu và Đông, thì liền có được
niềm vui bất tuyệt như vua Trần Nhân Tông đã
thốt:
Như kim khám phá
Ðông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn
khán trụy hồng.
(Khuôn mặt chúa
Xuân nay khám phá
Ngồi trên thiền
đệm ngắm hoa rơi).
Như chúng ta đều
biết, vua Trần Nhân Tông là một vị vua lãnh đạo
chiến thắng hai cuộc chống ngoại xâm Nguyên Mông,
tổ chức thành công Hội nghị Diên Hồng, xây dựng
một xã hội đạo đức, thanh bình, có nề nếp, cũng
là vị vua đã mở mang bờ cõi trong tinh thần hòa
bình. Như vậy, "đuợc lòng", nụ cười của Phật
giáo Việt nam nói riêng và của Phật giáo nói
chung, là một nụ cười gắn bó và hòa nhịp với
bước chân của thời đại, nhân sinh, xã hội và con
người, là thực tại sống động ở ngay đây và bây
giờ.
Và nụ cười của
chúng ta
Nụ cười của Phật
mất đi trên thế gian khi chúng ta chìm vào trong
tham, sân, si, mạn, nghi. Nó mất đi khi chúng ta
sống một đời sống ngăn cách, xa lìa, chia chẻ,
bất hòa. Nụ cười đó cũng mất đi khi chúng ta
không còn biết lắng nghe, không còn biết chiêm
ngưỡng, tôn trọng, yêu mến và biết ơn những cái
đẹp của đời sống. Nụ cười đó cũng không còn nữa
khi chúng ta không hòa nhập được vào dòng sống
của thời đại, của xã hội, không đồng hành cùng
con người và thời đại chúng ta đang sống.
Chúng ta hãy nhìn
bằng cái nhìn “Bốn mắt nhìn nhau”(*) để có thể
nhìn sâu vào nhau, để có thể nhìn được Phật tánh
của nhau.
Chúng ta hãy chúc
nhau bằng lời chúc của ngài Chân Nguyên:
Quốc gia vĩnh cửu,
ngôi báu kim luân và trời đất trường tồn.
Phật đạo không
cùng, nối Tổ truyền Tông cùng Thứu Phong chẳng
mất.
Hãy lấy nụ cười
của Phật làm nền tảng, làm con mắt cho những lời
chúc đó. Khi xã hội có nền tảng, có con mắt thì
nó mới phát triển đúng hướng, con người trong đó
mới có hạnh phúc, và đất nước mới thanh bình,
giàu mạnh.
Nụ cười đó thật
sự vẫn mãi mãi tồn tại trong tâm của mỗi người,
đó là Phật tánh vốn sẵn của mỗi người. Để khơi
lại nụ cười đó, chúng ta cần phát triển và đào
sâu cái nhìn, cái thấy để cảm thông, để có tình
thương, trách nhiệm, lòng lân mẫn và biết đối xử
bằng trái tim ấm áp với mọi người, mọi loài, hữu
tình hay vô tình.
Nụ cười đó không
phải khó nhọc đi tìm như chàng trai kia cột đá
vào lưng, nhọc nhằn leo lên đầu núi thẳm để tìm
kiếm, như trong một cuốn phim của Đại Hàn có tên
Xuân Hạ Thu Đông. Nhưng nụ cười đó nằm ngay
trong cuộc sống bình thường, đói ăn khát uống,
đúng thời khắc thì tự tại ra đi như của vị thầy.
Nụ cười đó vốn
sẵn ngay đây và bây giờ, ở ngay trong điểm giao
hội giữa không gian và thời gian mà chúng ta dễ
cảm nhận qua ngày Tết, qua mùa Xuân. Khi tâm
thức dừng lại, “không nghĩ thiện, không nghĩ ác”(**),
khi tâm thức xả bỏ mọi thứ trong quá khứ (của
năm cũ) và chưa nhọc nhằn tính toán cho tương
lai, Phật tánh sẽ chiếu qua chỗ dừng nghỉ đó để
hiển lộ. Hãy chộp lấy nó và gìn giữ nó. Khi
chúng ta chộp bắt được nền tảng của mùa Xuân,
chúng ta sẽ chộp bắt được nền tảng của sự tương
giao giữa chúng ta và thế giới, giữa chúng ta và
cái nền tảng nằm bên sau và bao trùm mọi hiện
tượng, mọi tưởng niệm. Khi đó chúng ta "được
lòng". Khi "được lòng" rồi, như lời dạy của các
Thiền sư, chúng ta hãy khéo quán sát và giữ gìn
nó.
Hy vọng nụ cười
của Phật sẽ vẫn nở cho đến khi mọi người đều
nhìn thấy và cảm nhận. Và cũng hy vọng rằng mùa
Xuân sẽ là một môi trường để chúng ta dừng lại
và nhìn thấy nụ cuời đó, như tiền nhân của chúng
ta đã từng làm.
Xin chúc mọi
người:
Xuân đến, Xuân đi,
Xuân bất tận,
Vui hoài, vui mãi,
vui không cùng.
Thị Giới
(theo Giác Ngộ Online)
============
(*) Năm 19
tuổi, Thiền Sư Chân Nguyên lên chùa Hoa Yên vào
yết kiến Thiền sư Tuệ Nguyệt (Chân Trú). Thiền
sư Tuệ Nguyệt hỏi: - Ngươi ở đâu đến đây? Sư
thưa: - Vốn không đi lại. Tuệ Nguyệt biết Sư là
pháp khí sau này, bèn thế phát xuất gia cho pháp
danh là Tuệ Đăng. Sau không bao lâu Tuệ Nguyệt
tịch. Sư cùng bạn đồng liêu là Như Niệm phát
nguyện tu hạnh đầu-đà đi du phương để tham vấn
Phật pháp. Thời gian sau, Như Niệm đổi ý trở về
trụ trì chùa Cô Tiên. Sư đi lên chùa Vĩnh Phúc ở
núi Côn Cương tham vấn Thiền sư Minh Lương là đệ
tử của Chuyết Chuyết. Sư hỏi: - “Bao năm dồn
chứa ngọc trong đãy, hôm nay tận mặt thấy thế
nào” là sao? Thiền sư Minh Lương đưa mắt nhìn
thẳng vào Sư, Sư nhìn lại, liền cảm ngộ, sụp
xuống lạy. Minh Lương bảo: - Dòng thiền Lâm Tế
trao cho ông, ông nên kế thừa làm thạnh ở đời.
Minh Lương đặt cho Sư pháp hiệu là Chân Nguyên
và bài kệ phó pháp: Ngọc quý ẩn trong đá Hoa sen
mọc từ bùn Nên biết chỗ sinh tử Ngộ vốn thật
Bồ-đề. (Mỹ ngọc tàng ngoan thạch Liên hoa xuất ứ
nê Tu tri sinh tử xứ Ngộ thị tức Bồ đề). Chính
vì chỗ ngộ này, sau Sư soạn quyển “Trần Triều
Thiền Tôn Chỉ Nam Truyền Tâm Quốc Ngữ Hành” có
cả thảy bảy lần nói về “Tứ mục tương cố” (bốn
mắt nhìn nhau).(HT.Thích Thanh Từ.) (**) Ngài
Huệ Năng, Pháp Bảo Đàn Kinh.


|