Thẩm Mỹ Mùa Xuân
Thích Thông Huệ

Một năm trôi qua,
chúng ta đã nếm trải bao vị chua cay ngọt mặn
của cuộc sống, có thêm một số kinh nghiệm trên
đường đời và đường đạo. Nhờ vậy, chúng ta có sự
thâm trầm tỉnh thức trước những hoàn cảnh thuận
nghịch, trước những thử thách gian truân.
Đây là điều kiện
cần thiết giúp chúng ta hoàn thiện nhân cách,
thăng hoa đời sống tâm linh, dần dần vững bước
trên lối về với Chân Thiện Mỹ.
Theo lý nghĩa sâu
xa của Đạo, Chân là bản thể chân thật tuyệt đối,
là thể tính bất sinh sẵn đủ ở mọi loài; Thiện là
tâm thanh tịnh siêu vượt thiện ác, vắng bặt ý
niệm phân tích nhị biên; Mỹ là nét đẹp siêu
nhiên, là sự toàn bích của thế giới lý tưởng, là
sự hoàn hảo vượt thường mà trí tuệ con người
không thể suy lường nổi.
Nghe qua, chúng
ta nghĩ đó là những cảnh giới siêu thực, ở một
nơi nào, một thời điểm nào đó xa xôi mà chúng ta
không bao giờ có thể dự phần. Nhưng nếu thế thì
Đức Bổn Sư đã chẳng bảo rằng, bản hoài của chư
Phật là khai thị cho chúng sinh ngộ nhập Phật
tri kiến.
Phật tri kiến là
cái thấy biết của Phật, có thể nhận rõ và thưởng
thức vẻ đẹp toàn diện toàn hảo và bất sinh bất
diệt của muôn pháp. Con người chúng ta cũng có
khả năng tiềm tàng ấy - Đức Phật đã nhiều lần
khẳng định.
Nhưng chúng ta
phải làm thế nào phát huy khả năng ấy? Và mỗi
lúc Xuân về, chúng ta dùng phương cách gì để
đồng thời thưởng thức thẩm mỹ mùa Xuân nhân gian
tự nhiên và Xuân Đạo siêu nhiên?
Các pháp trong
thế gian quả thật muôn màu muôn vẻ, mỗi mùa lại
biểu hiện những sắc thái khác nhau. Đặc biệt vào
mùa Xuân, cây cối đâm chồi nẩy lộc, ngàn hoa đua
nở khoe sắc khoe hương, cả đất trời như bừng
tỉnh dậy sau giấc ngủ mùa đông dày đặc.
Ta cảm thấy lòng
rộn rã theo sự chuyển mình của vạn vật, ta nôn
nao theo nhịp sống tưng bừng của mọi người chung
quanh. Dường như từ cõi vô hình, ông bà tổ tiên
ta cũng tụ hội về, sum vầy cùng con cháu.
Rồi những ngày
vui cũng qua mau, chúng ta trở lại với những lo
toan tất bật đời thường; những hoa những lá mới
tươi đẹp là thế, nay đã héo úa tàn phai; không
gian mới trong lành ấm áp là thế, nay đã vội
nóng bức ngột ngạt.
Nét đẹp của Xuân
nhân gian mang theo tính chất đa thù phức tạp,
lại còn tạm bợ mong manh, phụ thuộc không gian
thời gian và cả tâm trạng của mỗi người. Một thi
sĩ đã viết:
Lả lướt đợi ngày
Xuân trở lại,
Ngày Xuân trở lại,
hỏi bao ngày!
Năm canh lạnh lẽo
kinh sương gió,
Ngùi ngậm tàn
Xuân hoa rụng đầy…
Ngay trong nét
tươi xanh của cây lá và rực rỡ của hoa Xuân, đã
ẩn náu sự tàn phai của hoa mùa hạ, sự rơi rụng
của lá mùa thu và sự khô chết của cây mùa đông.
Cho nên:
Xuân đang tới
nghĩa là Xuân đang qua
Trăng còn non
nghĩa là trăng sắp già.
Người đời thường
nhìn Xuân qua thời gian ước lệ, qua cảnh vật đổi
thay; từ đó chạy theo cái đẹp bên ngoài, phát
sinh tình cảm chiếm hữu, tạo nghiệp và trầm luân.
Có thể nói, cái đẹp mùa Xuân nhân gian là cái
đẹp của ràng buộc, của vô thường, của sinh tử.
Nếu Xuân đời
thuộc thẩm mỹ đa thù tương đối, có sinh có diệt,
thì Xuân Đạo lại thuộc phạm trù thẩm mỹ thuần
nhất, tuyệt đối, bất sinh. Khi trở về trạng thái
tịch lặng mà hằng tri của bản tâm, các bậc ngộ
đạo thấy toàn thể các pháp đều ở trong ánh giác.
Mùa Xuân về,
Thiền sư Tuyết Đậu thấy cây cối trùng điệp, nước
hồ lấp lánh xanh biếc, trời Xuân bát ngát thênh
thang. Tâm Ngài hòa theo vạn vật, thấy mình tuy
còn trong sinh tử mà vẫn đứng riêng nơi cõi siêu
sinh:
Núi Xuân chồng
chất xanh
Nước Xuân lóng
lánh biếc
Thênh thang bầu
trời cao
Đứng riêng trong
mù tột.
Hạnh phúc này
không phải tranh đua giành giật với ai, không ai
có thể cướp mất của mình, cũng không bị biến
hoại theo thời gian không gian. Ấy là hạnh phúc
đích thực của những người đã nhận ra cái vĩnh
hằng trong dòng biến thiên vô tận của muôn pháp.
Một khách Tăng
hỏi Thiền sư Chân Không: “Khi sắc thân bại hoại
thì thế nào?”. Ngài đáp: “Xuân đến Xuân đi ngỡ
Xuân hết,
Hoa tàn hoa nở chỉ là Xuân”.
Bậc ngộ đạo hằng
sống với Phật tâm không sinh không diệt, nên dù
sắc thân còn mất như Xuân đời có đến có đi, các
Ngài vẫn luôn ở trong mùa Xuân miên viễn; ví như
con sóng lúc nổi lúc chìm, nhưng dù chìm nổi
cũng không bao giờ rời thể tính biển cả mênh
mông.
Vũ trụ dù có đổi
dời, thời gian dù không ngừng trôi chảy, vẫn ẩn
tàng nét thẩm mỹ siêu nhiên, nét đẹp uyên nguyên
hằng hữu của pháp giới tính. Đây là ý nghĩa của
Diệu Pháp Liên Hoa, một hoa sen huyền diệu nở
trong lò lửa vô thường.
Thấm thoát thu
qua mấy độ rồi
Đời người bóng
chớp áng mây trôi.
Muôn vật hiện bày
trò ảo hóa
Sen nở trong lò
sắc thường tươi.
Thu qua đông tới,
Xuân lại về, hoa vàng mấy độ. Đời người như bóng
chớp như áng mây, chợt còn chợt mất; muôn cảnh
như mộng ảo không thật có, không thường còn.
Nếu tâm dính mắc
với trần cảnh ngoại duyên, ta thấy cuộc đời mình
luôn bị chi phối bởi những tác nhân bên ngoài,
không lúc nào an ổn. Nhưng nếu đối cảnh mà tâm
vắng bặt mọi ý niệm phân biệt, mọi suy tính lăng
xăng, ta sẽ có cơ hội tiếp cận với cái chân thật
muôn đời.
Chủ trương nhập
thế tích cực của đạo Phật không phải rời bỏ thế
gian, xa lánh cuộc đời; các Ngài vẫn chu toàn
mọi bổn phận với đời nhưng không bị đời ràng
buộc.
Hình tượng của
Bồ-tát Di Lặc là một biểu hiện sinh động của
tinh thần hòa quang đồng trần. Nụ cười của Ngài
thật rạng rỡ, thật bình an giữa đám trẻ vây
quanh; vì buông xả đến tận cùng các
Căn-Trần-Thức nên ở trong pháp sinh diệt mà vượt
thoát sinh diệt, nên lục tặc biến thành lục
thông, nên ngay Xuân nhân gian mà tâm Xuân của
Ngài mãi lồng lộng trong đất trời!
Như vậy, Xuân Đạo
và Xuân đời chỉ là hai mặt của cùng một thực tại.
Xuân đời thuộc thế giới hữu hạn, tương đối, đa
thù; Xuân Đạo có tính vô hạn, tuyệt đối, thuần
nhất; nhưng cả hai không thể tách rời mà hòa
quyện nhau như sóng và nước.
Khi chúng ta phân
tâm trên cảnh mùa Xuân và bị cảnh ràng buộc, ấy
là thưởng thức Xuân đời có đến có đi có sinh
diệt. Cũng trên cảnh ấy mà tâm thanh tịnh không
khởi niệm phân biệt nhị biên, dù vẫn thấy nghe
hay biết rõ ràng, chúng ta đang vui cùng Xuân
đạo.
Các bậc ngộ đạo
vẫn cảm xúc cùng Xuân, nhưng sự cảm xúc này ở
chiều sâu thẳm của vô thức chứ không hời hợt
trên mặt ý thức. Các Ngài vẫn thưởng ngoạn thẩm
mỹ mùa Xuân, nhưng do quán triệt sự lý viên dung
nên vẫn duy trì sự tỉnh thức, để đời và đạo, đa
thù và thuần nhất trở thành bất khả phân ly.
Các Ngài hòa mình
với thế gian vô thường, với vũ trụ biến đổi mà
tâm không phân biệt năng sở chủ khách, nhưng dù
ở trong những tầm thường của cuộc sống mà vẫn có
niềm an lạc diệu thường.
Lúc sống không
cần biết hưởng thụ thế nào, khi chết không đặt
vấn đề mình sẽ đi đâu; sống không thích Thiên
đường, chết không sợ Địa ngục, nên các Ngài tự
tại trước sinh tử, và dù thời gian trôi chảy
không dừng, các Ngài vẫn mãi sống trong mùa Xuân
bất diệt.
Một Thiền sư có
nói bài kệ như sau:
Năm trước gặp
thanh Xuân,
Má hồng khoe đào
lý.
Năm nay gặp thanh
Xuân,
Tóc bạc đầy mái
đầu.
Người đời tuổi
bảy mươi,
Nhanh như dòng
nước chảy.
Chẳng ngộ tâm xưa
nay,
Sinh tử làm sao
khỏi?
Năm xưa còn trẻ,
ngắm nhìn những cô gái má đào mơn mởn, lòng
không khỏi rộn ràng tình ý. Năm nay, trên đường
vẫn gặp bóng áo hồng áo xanh, nhưng nhìn lại
mình đã thấy tóc bạc đầy đầu… Thời gian trôi
nhanh như dòng nước chảy, thoáng chốc mình đã ở
tuổi “cổ lai hy”, cái chết đang là mối hăm dọa
lớn. Nếu cứ mãi đắm mình trong ngũ dục, không
sống với bản tâm chân thật xưa nay, làm sao
thoát khỏi luân hồi?
Hãy ngay trong
thế giới vô thường mà sống được với cái chân
thường, ngay dòng sanh tử mà tự tại với thể tính
bất sinh. Bản tâm thể tính ấy là cành mai của
Thiền sư Mãn Giác, là hoa cúc của Tam Tổ Huyền
Quang; ấy là mùa Xuân miên viễn lung linh chiếu
diệu trong thời gian vô cùng và không gian vô
biên.
Chúng ta thưởng
thức vẻ đẹp của mùa Xuân nhân gian, nên ngay đó
mà nhận ra thẩm mỹ của mùa Xuân siêu thế. Xuân
ấy chỉ ở trong mỗi người.
Khi tâm thanh
tịnh, không dính mắc trần cảnh sinh niệm vọng
động, thì nơi muôn hoa tàn nở, ta nhận ra hoa
Xuân chưa từng tàn nở bao giờ.
Cầu
chúc tất cả chúng ta, trong mùa Xuân của đất
trời đang đến, sống được với Xuân trong lòng
mình và chan hòa ý Xuân ấy cho mọi người, để
hạnh phúc vĩnh cửu luôn tỏa sáng muôn nơi, bây
giờ và mãi mãi!
Thích Thông Huệ


|