Đường Lối Thực
Hành Thiền Phái Trúc Lâm
Vân Tuyền

Trước nhất muốn
xác định cách tu tập của dòng thiền Trúc Lâm,
thì chúng ta ngược dòng lịch sử để dẫn chứng.
Thái tổ Trần
triều là vua Trần Thái Tông, Ngài còn để lại
những tác phẩm kinh điển, trong đó có quyển
“Thiền Tông Chỉ Nam”, nội dung quyển sách này
Ngài có làm 43 câu niệm tụng kệ công án…
“Tuệ Trung Thượng
Sĩ Ngữ Lục” cũng có niêm tụng công án…
Vua Trần Nhân
Tông lúc còn nhỏ, trong cung được sự dạy dỗ của
Tuệ Trung Thượng Sĩ, đối với Phật học, sách gối
đầu giường là “Đại Huệ Ngữ Lục”. Tam vị thánh Tổ
Trúc Lâm đều lấy “Đại Huệ Ngữ Lục” làm kim chỉ
nam cho học chúng, (Đại Huệ thiền sư, Ngài cực
lực phát dương công án, thoại đầu để dạy chúng
tham thiền).
Như vậy muốn tìm
hiểu phương pháp thực hành của dòng thiền Trúc
Lâm. Chúng ta trích dẫn lời sách tấn của nhị Tổ
Trúc Lâm (Pháp Loa) để làm sáng tỏ đường lối tu
tập:
LỜI KHUYÊN XUẤT GIA TIẾN ĐẠO
(Khuyến xuất gia
tiến đạo ngôn)
Kính khuyên chúng
xuất gia học đạo, hãy xét kỹ những lời này:
Chúng ta nghiệp dày phước mỏng, ra đời chẳng gặp
thời Chánh Pháp, đức Thích Ca đã nhập diệt, đức
Di Lặc chưa sanh, Thánh Hiền ẩn bóng, tà pháp
thạnh hành, than ôi buồn thay!
Những vị xuất gia,
vốn vì đền đáp bốn trọng ân, nghĩ cứu giúp ba
đường khổ. Nếu muốn đạt được tâm Phật ý Tổ, biết
sanh hiểu tử, trước phải học hai pháp.
Thế nào là hai?
- Một, phải học
ba thứ pháp.
- Hai, phải học
pháp cầu thầy.
Ba thứ pháp là:
1. Rõ tông sư. 2. Biện pháp chân ngụy. 3. Biết
thiện ác.
1.- Rõ tông sư -
Kinh Bổn Hạnh nói: Từ trước Tổ sư thuyết pháp
những gì? Có bao nhiêu người đắc đạo nối pháp
truyền tông, đến nay thầy nào, chúng nào đáng
học ?
2.- Biện pháp
chân ngụy - Nếu pháp chân là thường giữ giới
luật, y pháp tiến tu. Nếu pháp ngụy, như trong
lời lục của Đại Huệ nói: Bàn luận ngoại đạo,
phỏng đoán nghĩa lý, lập làm tông chỉ, rồi trao
truyền cho nhau.
3.- Biết thiện ác
- Nếu gần gũi bạn lành là thường khuyên mình sám
hối để diệt những tội lỗi trước, siêng năng tìm
thiện tri thức, tu hành tinh tấn... Nếu gần gũi
bạn ác thì miệng nói xuất gia mà tâm làm theo
nghiệp thế tục, tự làm và dạy người làm, tâm
không biết hổ thẹn.
Trên là ba pháp
nên gần gũi và không nên gần gũi.
Hai, phải học
pháp cầu thầy. Như trong Lễ Tán nói: Thường ở
trong tùng lâm của thiện tri thức, hằng nằm
trong khuôn vức của Tổ sư. Đó là phương pháp
chọn bạn tìm thầy vậy.
Nếu người đầy đủ
cả hai pháp trên, tức là đạt được tâm Phật ý Tổ
và biết sanh hiểu tử.
Này các người!
Bên trong đã bỏ cha mẹ, bên ngoài thì không
thông Phật pháp, tự xưng là tu hành, vậy tu hành
là cái đạo gì? Các người nên xét kỹ lời nói này.
Trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu Ân nói: “Mười tháng
mang thai, ba năm bú sú, ân nào sánh bằng” mà
các ngươi còn bỏ được, huống là những kẻ bên
ngoài? Thế lại bo bo chấp tình thầy trò, không
thể cởi bỏ, không phược trở lại tìm phược, không
trói lại cầu trói. Chỉ vì tham cầu lợi dưỡng,
chẳng sợ trầm luân. Hoặc đắm mê danh vọng ở đời,
hoặc tự mình không hiểu không biết, ấy đều là
bọn vô minh vậy.
Từ trước, các Tổ
sư hành đạo tu thiền, tâm đồng với hư không, mặc
đến mặc đi, hoặc Nam hoặc Bắc, tham thiền hỏi
đạo, nhân duyên hội ngộ thì tự lợi lợi tha, ấy
mới thật là Phật pháp.
KHUYÊN CHÚNG THƯỢNG THỪA TAM HỌC
(Thượng thừa tam
học khuyến chúng phổ thuyết)
Là người học Phật,
trước phải thấy tánh. Thấy tánh, không phải có
tánh bị thấy. Nói thấy, là thấy chỗ không thể
thấy mà thấy vậy. Cho nên nói thấy, thấy không
phải thấy, thì Chân tánh hiện. Tánh thấy là vô
sanh, sanh thấy thì chẳng phải có, chẳng có cái
tánh thật, mà thấy thật không dời đổi. Thế nên
gọi là chân thật thấy tánh.
Sau khi thấy tánh,
phải gìn giữ giới cho thanh tịnh. Thế nào là
giới thanh tịnh? Nghĩa là trong mười hai giờ,
ngoài dứt các duyên, trong tâm không loạn. Vì
tâm không loạn động nên cảnh đến vẫn an nhàn.
Mắt không vì cái sở duyên của thức mà chạy ra,
thức không vì cái sở duyên của cảnh mà chui vào.
Ra, vào không giao thiệp nên gọi là ngăn chận.
Tuy nói ngăn chận mà không phải ngăn chận. Tai,
mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế. Đó gọi là giới
Đại thừa, là giới vô thượng cũng gọi là giới vô
đẳng đẳng. Tịnh giới nầy, dù Tiểu tăng cho đến
bậc Đại tăng đều phải gìn giữ.
Nhân giữ giới
vững chắc không động, kế đó mới tập Thiền. Cái
yếu chỉ của Thiền định là thân tâm đều xả. Trước
tập định tâm, thường tự suy xét: Thân này từ đâu
mà đến? Tâm này từ đâu mà có? Tâm không thật có
thì từ đâu có thân? Thân tâm đều không thì pháp
từ đâu mà có? Pháp không thật có, vì không có
cái có, cái có có đó từ đâu mà có? Cái có có đó
đã không thì không có pháp có. Mỗi pháp chẳng
phải pháp, thì mỗi pháp nương vào đâu? Không có
chỗ dựa nương thì pháp không phải mỗi pháp. Pháp
này không thật cũng chẳng phải không thật. Chứng
được thật pháp, mới hay chứng nhập thiền.
Người tu tập
Thiền định không được chấp dụng công, dụng mà
không có chỗ dụng, gọi là Thiền thượng thừa.
Ngoài tham thoại đầu không cho gián đoạn, miên
mật liên tục không có kẽ hở, cũng không điên đảo,
không trạo cử cũng không hôn trầm. Phải trong
trẻo như viên ngọc lăn trên mâm, phải sáng suốt
như gương trên đài. Đến chỗ đất này, đi cũng
được, đứng cũng được, ngồi cũng được, nằm cũng
được, nói hay nín đều cũng được, có chỗ nào lại
không được?
Đã được thế rồi,
về sau mới nêu lên những câu ngộ: Tam quan, tam
huyền, tam yếu, ngũ vị, tứ liệu giản, tứ tân chủ,
tứ chiếu dụng, v.v. các cơ quan của Thiền tổ.
Bảy phen soi tám phen dùi, nhồi đi ép lại, thấu
triệt chân nguyên, chừng đó, mới hay mượn pháp
tòa của Phật Đăng Vương, nắm sừng thỏ, nhổ lông
rùa, tay hoa một phen chuyển, bốn chúng thảy mịt
mờ. Phát sanh vô thượng Diệu Huệ, chiếu soi
không cùng. Đối với Tứ vô lượng tâm, Tứ niệm xứ,
Tứ vô úy, Bát chánh đạo, Thập lực của Phật, Mười
tám pháp bất cộng, cho đến tám muôn bốn ngàn môn
Đà-la-ni, trần trần sát sát, tất cả môn tam-muội
đều từ nơi mình lưu xuất mỗi mỗi đều đầy đủ.
Tuệ đã đầy đủ,
ban cho chúng sanh, nguyện lực không cùng tận,
tự giác giác tha, tứ sanh và cửu loại, tất cả
đều được thấm nhuần. Nếu tuệ mà không định gọi
là càn tuệ (tuệ khô), định mà không tuệ gọi là
si thiền.
Thiền có chia làm
năm:
1) Phàm phu thiền,
2) Ngoại đạo
thiền,
3) Tiểu thừa
thiền,
4) Đại thừa thiền,
5) Thượng thừa
thiền.
Đây nói thiền,
chính là Thượng thừa thiền vậy. Thiền này, từ
đức Phật Tỳ-lô-giá-na trải qua số kiếp bất khả
thuyết bất khả thuyết đến đức Phật Thích Ca Mâu
Ni. Đức Thích Ca truyền xuống cho hai mươi tám
vị Tổ ở Ấn Độ và sáu vị Tổ ở Trung Hoa, rồi Tổ
Tổ trao tay cho nhau truyền bá khắp nơi, tính
không thể hết được. Các vị đều do giới này, định
này, tuệ này mà được chứng ngộ, thật không có
pháp nào khác.
Các chú! Các chú
đã vào trong chùa làm ông đạo (điệu), làm học
trò, chỉ cầu danh dự mà chẳng chịu tham đến chỗ,
cái gì là chỗ hạ thủ của Phật, của Tổ? Cái gì là
chỗ dụng tâm của ngoại đạo, Tiểu thừa? Luống để
cho ngày lại tháng qua, lăng xăng tìm cầu bên
ngoài. Một phen cái chết đến rồi phải làm sao?
Đâu là nơi an thân lập mạng? Vả lại, ba ngàn oai
nghi tám muôn tế hạnh, chính mình không có một
mảy may. Một hôm nào đó, vua Diêm-la đến ắt
không thể tha cho ngươi. Ngươi sao chẳng chịu
xét lại, chớ lấy các việc trong mộng, rồi bác
không nhân quả “mênh mang bát ngát chiêu ương
họa”. Như thế chẳng những làm đồi bại tông môn,
mà cũng khiến suy tàn chánh pháp.
Ôi! Tôi còn biết
nói gì hơn!
(Trích Thiền sư
Việt Nam - Hòa thượng Thanh Từ dịch)
Sau thời gian
Trịnh, Nguyễn phân tranh thì tông phái thiền
Trúc Lâm tuyệt truyền rồi tiếp đến Lâm Tế, Tào
Động từ Trung Hoa sang, chư vị Tổ sư cũng dạy
tham công án thoại đầu, như Tổ sư Liễu Quán xuất
thân từ Tổ Đình Ấn Tông (Từ Đàm cổ tự) Ngài cũng
do tham câu thoại đầu: Vạn pháp quy nhất, nhất
quy hà xứ? (Muôn pháp về một, một về chỗ nào ?)
mà chứng ngộ.
Sau khi đại triệt
ngộ, kiến tánh rồi Ngài lập tông chỉ thành một
tông phái Liễu Quán truyền thừa cho đến ngày
nay.
Phật giáo Việt
Nam trong vài thế kỷ gần đây đều chịu ảnh hưởng
Tông thiền Lâm Tế và Tào Động.
Bia tháp, long vị
đều ghi: Từ Lâm Tế chánh tông - Lâm Tế gia phổ -
Tào Động, v.v.
Lịch sử Phật giáo
Việt Nam, đặc biệt Thiền tông luôn là chủ lực
trong mọi thời đại, để gồm hoằng dương những
tông khác như Giáo môn, Tịnh độ, Mật tông. Khác
hẳn với Trung Quốc ở điểm này.


|