ĐẠO PHẬT THỂ HIỆN
TRONG CUỘC ĐỜI
NHÀ VUA - THIỀN
SƯ TRẦN NHÂN TÔNG
Nguyễn Thế Đăng
Nhắc đến Trần
Nhân Tông, là người Việt Nam, ai trong chúng ta
cũng biết đó là ông vua anh hùng đã hai lần đánh
thắng cuộc xâm lược của Nguyên Mông, đạo quân
bách chiến bách thắng từ Á sang Âu hồi ấy. Nhắc
đến Trần Nhân Tông là nhắc đến thời đại cực
thịnh của nhà Trần, khi chung quanh ông là những
khuôn mặt đã tạo ra cái thời đại lịch sử vẻ vang
ấy: Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão,
Trần Bình Trọng, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản,
Mạc Đỉnh Chi, Lê Văn Hưu, Trương Hán Siêu, Tuệ
Trung Thượng Sĩ, Pháp Loa, Huyền Quang…
Và riêng với lịch
sử đạo Phật Việt Nam, nhắc tới vua Nhân Tông là
nhắc tới một trường hợp duy nhất sau Đức Thích
Ca: một vị vua bỏ ngôi, xuất gia đắc đạo và trở
thành Sơ Tổ của phái Thiền Trúc Lâm do người
Việt Nam sáng lập, một cuộc đời biểu lộ cái sức
sống diệu kỳ của đạo Phật trong mọi hoàn cảnh
đời sống. Vua đã chứng minh được bằng chính cuộc
đời mình đạo Phật là cái gì sống động, rằng đối
với người hiểu biết, thì đạo Phật có mặt trong
giờ phút chiến tranh dầu sôi lửa bỏng, đạo Phật
có mặt trong lúc an nhàn nhìn ngắm buổi chiều
quê (bài thơ Thiên Trường văn vọng), đạo Phật
trên con đường đi khắp thôn làng để giảng kinh
Thập Thiện, đạo Phật có mặt trong tất cả các mối
tương quan vua tôi, cha con, chồng vợ, người giữ
nước và kẻ xâm lăng…
Khi nói rằng đạo
Phật là cái trục cốt lõi quanh đó cuộc đời Trần
Nhân Tông xoay chuyển: khi thì ứng phó với hoàn
cảnh này, khi đáp ứng hoàn cảnh nọ, không phải
là đề cao quá mức ảnh hưởng của đạo Phật với nhà
vua Trần Nhân Tông, không phải là “thấy sang bắt
quàng làm họ”. Ông nội vua là Trần Thái Tông,
người viết nên bản văn Thiền Khóa Hư Lục; ngay
từ thiếu niên vua đã gặp Thượng sĩ Tuệ Trung và
thờ làm thầy, vua cũng đã có ý định nhường ngôi
cho em để xuất gia; về cuối đời khi đã hoàn
thành bổn phận trị nước, vua làm lễ xuất gia
ngay giữa triều đình, trở thành Sơ Tổ phái Thiền
Trúc Lâm.
Vì thế nghiên cứu
một vài sự việc trong cuộc đời vua Trần Nhân
Tông chính là tìm hiểu xem đạo Phật đã biểu lộ
nơi một con người trước những hoàn cảnh khác
biệt nhau như thế nào. Sau đây chúng ta xét qua
vài sự việc ấy mà không theo thứ tự lịch sử.
Hội nghị Diên
Hồng: Sau hội nghị quân sự Bình Than, vua triệu
tập bô lão khắp nước dự tiệc ở điện Diên Hồng để
trưng cầu ý kiến nên hòa hay nên đánh. Tất cả
đều đồng lòng: Xin đánh. Năm đó vua 27 tuổi. Ở
đây ta thấy sự biểu lộ của tinh thần vô ngã và
bình đẳng của đạo Phật. Vô ngã nghĩa là không
cho mình là nhất, ý mình là ý trời, mặc dù đang
ở ngôi vua, mà trước sự an nguy, tồn vong của
đất nước, trước sự có thể thiệt hại lớn lao về
sinh mạng và của cải của mọi người, vua không tự
mình quyết định, mà xin ý kiến của toàn dân.
Bình đẳng là không phân biệt địa vị, tuổi tác,
dòng tộc, quyền lợi mà cùng chung nhau tìm ra
giải pháp. Có thể nói hội nghị Diên Hồng là sự
chiến thắng của tinh thần dân chủ, và sự chiến
thắng của lòng dân ấy đã tạo ra chiến thắng quân
sự sau đó, là lần chiến đấu gian khổ, nguy ngập
nhất.
Gả công chúa
Huyền Trân cho vua Chiêm, tạo nên nền hòa bình
Chiêm Việt lâu dài: Năm 1301 vua đi thăm Chiêm
Thành, sau khi đã xuất gia, vua hứa gả công chúa
Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân. Vua Chiêm
dâng hai châu Ô, Lý (Thuận, Hóa tức Bình Trị
Thiên) làm lễ cưới. Sự việc này dẫn đến một nền
hòa bình ở phương Nam giữa Chiêm và Việt. Về sau,
bằng tình cảm đơn giản của mình, dân gian thương
tiếc cho công chúa Huyền Trân (Tiếc thay cây quế
giữ rừng, Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo),
người thì bảo đây là hành động chính trị để có
thêm hai châu Thuận, hóa. Xét sâu xa hơn, với
một người thấm nhuần đạo Phật từ nhỏ, có phải
rằng đây là kết quả của một cái nhìn đạo Phật:
tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, bất kể màu
da, chủng tộc, ngôn ngữ. Có phải rằng đây là
hành động của một người đã xóa bỏ nơi mình đầu
óc phân biệt chủng tộc, đã nhìn thấy mọi người
đều đáng trân trọng, một người đã xem sự hòa
bình và an toàn của mọi sinh vật là quan trọng
hơn hết?
Trước cái chết
của Toa Đô: Năm 1285 là năm nguy khốn của nhà
Trần, thế giặc cả thủy lẫn bộ mạnh nhất trong ba
lần xâm lăng, triều đình chạy vào Thanh Hóa,
phía Bắc Thoát Hoan đánh xuống, phía Nam Toa Đô
đánh ra, thế nước như chỉ mành treo chuông, Trần
Hưng Đạo phải nói:
xin
chém đầu tôi rồi hãy hàng. Tháng 5 quân
ta phản công, Toa Đô bị chém ở Tây Kết. Khi
những tang tóc điêu linh còn sờ sờ trước mắt –
Trần Bình Trọng không chịu dụ hàng, “thà làm quỷ
nước Nam còn hơn làm vua đất Bắc”, bị xử chém –
Thăng Long bị giặc phá phách hoang tàn, thế mà
trước thủ cấp của tướng giặc Toa Đô, vua thương
hại nói: “Người làm tôi phải như thế này”, rồi
cởi áo ngự đắp lên cho chôn cất. Trong thời
phong kiến Trung cổ, một cử chỉ như thế đang lúc
chiến tranh quả là hiếm thấy. Đó là một hành
động phát lộ từ cội nguồn Từ Bi Hỷ Xả, tạo thành
nhân cách đạo Phật. Từ bi trước cái chết của một
con người, Hỷ xả trước cái vô minh của tham vọng
vô nghĩa của một đồng loại. Cũng với Từ Bi Hỷ Xả
đó mà vua cho trả hết tù binh sau khi đã thích
chữ trên trán
Bao dung với Trần
Khánh Dư: Trần Khánh Dư tánh tình có phần thô
thiển có chiến công được phong là Phiêu Kỵ Tướng
quân – một chức chỉ dành phong cho các hoàng tử
- Sau lại dan díu với công chúa Thiên Thụy.
Khánh Dư bị án “phải đánh chết”, nhưng vua dặn
“chớ đánh chết” rồi lột bỏ chức tước, sản nghiệp
về làm nghề bán than ở Chí Linh. Sau, trong hội
nghị Bình Than ở Chí Linh, vua cho phục chức làm
phó tướng, mà vẫn giữ nguyên án cũ, nhưng cho
lập công chuộc tội. Khánh Dư thua trận nhiều lần,
vua cũng kiên nhẫn không hỏi tội như các tướng
khác yêu cầu. Mãi đến năm 1288, Khánh Dư mới phá
được đoàn thuyền tiếp vận của Trương Văn Hổ, góp
phần quyết định cho cuộc kháng chiến thắng lợi
thứ 3. Về sau trở thành một tướng giỏi đời Trần.
Ở đây, chúng ta
nhớ lại lời của Thiền Sư Ngũ Tổ Pháp Diễn:
“Người xưa thích nghe lỗi mình, vui với sự làm
thiện, kiên nhẫn bao dung kẻ hoang sơ thô lỗ,
nhân hậu che điều xấu lỗi cho người, khiêm
nhường giao tiếp vói bạn hữu, siêng năng cứu
giúp tất cả, chẳng vì được mất mà có hai lòng,
bởi thế mà quang minh càng lớn lao, chiếu soi
kim cổ”.
Qua sự bao dung
với Trần Khánh Dư, qua việc cho đốt hết tài liệu
thơ từ có thể tố cáo những người có liên hệ với
giặc trong thời chiến tranh mà không hề xem qua,
phải chăng vua đã luôn luôn tin tưởng rằng cái
tốt cái thiện mới là khuôn mặt chân thường của
con người, còn cái ác cái xấu chỉ là vô thường,
tạm bợ ? Có phải vua đã luôn luôn có niềm tin
vĩnh cửu của Kinh Pháp Hoa: “Tất cả chúng sanh
đầu bất kỳ hạng loại gì rồi cũng sẽ thành Phật”.
Xả bỏ ngôi vua để
xuất gia và sống cuộc đời vì tất cả mọi người:
Năm 41 tuổi, vua xuất gia ở triều đình, lập ra
phái Thiền Trúc Lâm ở núi Yên Tử, từ đây vua tu
hạnh đầu đà, truyền bá đạo Phật khắp hang cùng
ngõ hẻm cho đến tận Chiêm Thành, đồng thời vẫn
làm cố vấn cho con là vua Trần Anh Tông. Có lẽ
đây là vị vua độc nhất trong lịch sử Đông Tây đã
làm một hành động giống như Đức Phật Thích Ca.
Sự xả bỏ ấy là sự xả bỏ của một người đã thấy
thật tướng của tất cả các pháp, đã giải thoát,
tự tại với tất cả, như chương thứ 42, Đạt Thế
Tri Huyễn của Kinh Bốn Mươi Hai Chương ghi nhận:
“Đức Phật nói: Ta xem thấy ngôi vua chúa như bụi
qua khe hở, thấy châu báu vàng ngọc như ngói đá,
thấy gấm vóc lụa là như vải rách, thấy đại thiên
thế giới như trái lật trong bàn tay, thấy hồ
nước A Nậu như thau rửa chân bẩn. Ta xem thấy
những món phương tiện như thành báu huyển hóa,
thấy vô thượng thừa như vàng ngọc lụa là trong
mộng, thấy Phật đạo như hoa trước mắt, thấy
thiền như cột trụ núi Tu Di, thấy Niết Bàn như
ngày đêm thức tỉnh, thấy chánh kiến tà kiến như
sáu con rồng lượn múa, thấy bình đẳng như thật
địa nhất chơn, thấy sự hưng hóa như cây cỏ bốn
mùa”.
Đó là cái thấy
của Trần Nhân Tông khi bỏ ngôi vua để thành một
Thiền sư giải thoát, như lời nói cuối cùng của
vua: “Tất cả pháp không sanh, tất cả pháp không
diệt. Nếu thấy hiểu như thế. Chư Phật thường
hiện tiền”.
Nhưng sự xuất gia
của vua không phải là thái độ tiêu cực “bỏ đời”
mà chính là sự hoàn thành ở mức độ cao nhất cái
bổn phận trách nhiệm của một con người: tự giác,
giác tha. Từ đây, với tư cách là một ông vua bỏ
ngôi, một vị Thượng hoàng, một vị Tổ đầu tiên
của Thiền Trúc Lâm, đồng thời là một Quốc sư,
vua một thân một mình với hạnh đầu đà đi khắp
hang cùng ngõ hẻm để truyền bá Phật pháp. Sự
xuất gia đó là thành tựu đẹp đẽ nhất, trong đó
con người chính trị, con người thao lược, con
người văn hóa, con người đạo đức kết hợp nơi một
đỉnh cao: hoàn toàn sống vì mọi người, cho tất
cả mọi người.
Để kết luận, khi
nhắc lại cuộc đời Trần Nhân Tông là nhắc lại một
con người đã thể hiện, đã sống đươc đạo Phật, đã
biểu lộ cái Chân Thiện Mỹ ra giữa cuộc đời. Vua
là bằng chứng nổi bật cho điều chúng ta thường
nói: dùng cái chân lý “bất biến” của đạo Phật mà
“tùy duyên” với mọi cảnh, bất biến để tùy duyên,
tùy duyên mà bất biến. Đó là một cuộc đời “khế
lý khế cơ”. Nơi vua những danh từ như bình đẳng,
vô ngả, từ bi, hỷ xả, vị tha… những ý niệm như
“Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều sẽ
thành Phật”, “Giải thoát hiện tiền ngay trong
đời sống”, “Phật pháp chẳng lìa thế gian pháp”,
“Sanh tử tức Niết Bàn” không còn lý thuyết, mà
danh từ đã biến thành thực tại, ý niệm trở thành
thực tiễn, đó có phải là điều mà đạo Phật gọi là
sự tu chứng ?
Qua vua chúng ta
thấy đạo Phật không bao giờ cạn nguồn. Đạo Phật
là nguồn sống không bao giờ cạn, luôn luôn sẵn
sàng cung ứng cho mọi hoàn cảnh sống, cho mọi
cuộc đời, cho mọi biến thái phát triển của lịch
sử. Vấn đề duy nhất còn lại là vấn đề của mỗi
chúng ta: chúng ta vận dụng được đạo Phật vào
cuộc đời, vào hoàn cảnh mình như thế nào?
Với riêng chúng
ta, đạo Phật đã truyền vào từ trước cả Trung
Hoa. Với gia sản khổng lồ của cha ông như thế,
chúng ta đang và sẽ đóng góp được gì vào sự phát
triển vật chất lẫn tinh thần của toàn bộ đất
nước chúng ta?
Nguyễn Thế Đăng
|