Giải Pháp Phật Giáo
Cho Vấn Đề Suy Đồi Đạo Đức
Thích Nguyên Hiệp

Sự
hiện diện của tôn giáo trong cộng đồng, theo
quan điểm Phật giáo, là tạo nên sự cân bằng giữa
đời sống vật chất và đời sống tinh thần.
Suy đồi đạo đức
và nguyên nhân
Một thực tế không
thể phủ nhận trong bối cảnh xã hội hiện nay là
hiện trạng một bộ phận lớn người dân Việt đang
dần đánh mất những chuẩn mực đạo đức căn bản. Và
bộ phận người này không khu biệt nơi một vùng
miền hay tầng lớp xã hội nào mà đã tràn lan và
hiện diện khắp nơi.
Chỉ cần xem qua
đài báo là có thể biết được thực trạng đạo đức
xã hội của ta đang như thế nào. Người ta đã nói
quá nhiều về những tình trạng: tham nhũng, mua
chức bán quyền, đạo đức y tế xuống cấp, đạo đức
giáo dục băng hoại, đạo đức kinh doanh thiếu
vắng, thái độ cửa quyền trong các tổ chức, hành
xử thô bạo giữa người với người, bạo lực học
đường, các giá trị thiêng liêng bị xâm hại, và
các mối quan hệ xã hội không còn được tôn trọng…
Và đâu là nguyên
nhân đưa đến sự suy thoái đạo đức trong đời sống
cộng đồng hiện nay? Có nhiều ý kiến đưa ra cho
vấn đề này: hậu quả của chính sách giáo dục xem
nhẹ đạo đức; các văn hoá ứng xử truyền thống đã
không được coi trọng và tiếp nối trong một thời
gian dài; xã hội chưa tạo ra được một nền tảng
đạo đức văn hoá vững vàng cân bằng với sự phát
triển kinh tế, dẫn đến một đời sống hưởng thụ,
ích kỷ; kỷ cương và giáo dục gia đình không được
chú trọng; ảnh hưởng sâu nặng lối sống tiêu thụ
và chủ nghĩa cá nhân phương Tây…
Nhìn từ Phật giáo,
vấn đề suy đồi đạo đức hiện nay có thể tập trung
vào những nguyên nhân sau: con người đang dần
đánh mất tính hổ thẹn, không tin nhân quả, thiếu
lòng từ bi, chấp ngã quá sâu nặng, và thiếu
chánh niệm. Những yếu tố này thường đan xen với
nhau, và khi cùng nhau sinh khởi thì đưa đến một
sự suy thoái đạo đức mang tính tổng thể.
Hổ thẹn, thuật
ngữ Phật học là “tàm quý”, một tâm thiện trong
tâm lý học Phật giáo, là yếu tố không thể thiếu
trong việc hoàn thiện nhân cách đạo đức và phát
triển đời sống tâm linh. Tâm thiện này, theo
Phật giáo, cần được nuôi dưỡng và phát triển một
cách tương tục từ lúc còn ấu thơ cho đến khi
trường thành và thậm chí tận cuối đời người.
Không biết hổ thẹn về những lỗi lầm và khuyết
điểm của mình, chúng ta không thể tiến bộ được
trong việc phát triển nhân cách cũng như trong
con đường tu tập. Có hổ thẹn thì mới có thể sám
hối những lỗi lầm cũ và cố gắng không tạo nên
những lầm lỗi mới.
Xã hội hiện nay
dường như có quá nhiều người không còn biết hổ
thẹn. Người ta xả rác bừa bãi lập đi lập lại,
bởi vì không còn biết hổ thẹn với những việc làm
đó. Người ta vặt hoa bẻ cành công khai bởi vì
không còn biết hổ thẹn với những người xung
quanh. Người ta lớn tiếng và hành xử thô lỗ ở
nơi công cộng do vì không biết hổ thẹn với những
hành vi gây phiền hà cho người khác. Tham nhũng,
dối gạt, cửa quyền cũng đều do không biết hổ
thẹn mà ra. Không biết hổ thẹn, có thể vì do
không được giáo dục phải biết xấu hổ về những
việc làm sai trái, nhưng cũng có thể đó là thái
độ trơ lì với những việc làm được lập đi lập lại
đến mức trở thành thói quen ngay nơi bản thân và
ở những người xung quanh.
Tham nhũng có thể
vì do không biết hổ thẹn, cũng có thể biết hổ
thẹn nhưng lại do không tin nhân quả; không nghĩ
rằng mình phải trả giá cho chính hành vi trộm
cắp (tham nhũng) của mình dù khi qua mặt được
pháp luật.
Bất hiếu vì không
biết hổ thẹn, vì thiếu tình thương, nhưng cũng
vì thiếu niềm tin vào luật nhân quả. Hành xử thô
bạo nơi cửa chùa, xả tươi thịt muông thú ngay
trong cửa chùa bởi vì không biết xấu hổ, không
hề nghĩ rằng những việc làm như vậy là xúc phạm
đến những giá trị truyền thống thiêng liêng,
nhưng đúng hơn hết là bất chấp luật nhân quả,
không nghĩ rằng những việc làm như vậy sẽ tạo
nên những tổn hại phước đức…
Nói tóm lại, nếu
tin nhân quả, người ta sẽ không làm những việc
xấu ác, và sẽ không có thái độ dùng một hành vi
đạo đức (giả) để che đậy một hành vi phi đạo đức
nhằm qua mặt sự kiểm soát của xã hội.
Tranh giành, chen
lấn, thiếu nhường nhịn, thiếu tử tế trong lối
hành xử của nhiều người hiện nay là những biểu
hiện của thói ích kỷ, một khía cạnh của sự chấp
ngã. Ai cũng chỉ biết đến mình, gia đình mình mà
không hề hay biết gì đến những người xung quanh,
dẫn đến hành vi coi nhẹ và bất chấp lợi ích và
hạnh phúc của người khác. Hình như ít ai nghĩ
rằng, trong móc xích nhân quả, làm hại người
cũng là đang làm hại mình.
Bạo lực học đường,
tình trạng tội phạm gia tăng, những kiểu đánh
đập và giết người vô cớ… là những biểu hiện của
tâm thức sân hận, thiếu từ bi, thiếu chánh niệm.
Tình trạng phóng xe lạng lách, ẩu tả, bất chấp
mạng sống của người đi đường cũng là biểu hiện
của tâm thức sân hận, thiếu từ bi và thiếu chánh
niệm. Xã hội hiện nay có quá nhiều người mang
tâm thức sân hận; và cũng có quá nhiều yếu tố
làm tăng thêm tâm thức sân hận. Vũ
trường, quán rượu được mở ra một cách dễ dàng và
càng lúc càng nhiều, trong khi những nơi chốn
đào luyện tinh thần và tâm thức lại không được
phát triển tương xứng. Chúng ta hy vọng gì một
người nghiêng ngả với thuốc lắc ở các vũ trường
thâu đêm sẽ có được lời nói và hành xử tốt vào
ngày hôm sau?!

Thử tìm giải pháp
từ Phật giáo
Phật giáo có
những nguyên tắc đạo đức có thể giúp chuyển đổi
con người và xã hội. Năm giới căn bản, mười điều
thiện, tám con đường chân chính… là những chuẩn
mực sống, những nguyên tắc có thể được áp dụng
cho cá nhân và cộng đồng, để chuyển đổi cá nhân
và cộng đồng theo chiều hướng tốt. Nhưng ở đây
tôi không đi vào thảo luận về những nguyên tắc
tu tập này, mà chỉ đề cập đền một vài khía cạnh
Phật học khác mà theo tôi có thể được xem như là
một giải pháp có thể ứng dụng cho việc giải
quyết sự xuống dóc đạo đức của xã hội hiện nay.
Như đã nói ở trên,
những nguyên nhân khiến chúng ta đánh mất đi sự
tử tể trong ứng xứ và sự suy thoái đạo đức là do
vì không biết hổ thẹn, không tin nhân quả, thiếu
lòng từ bi, chấp ngã và thiếu chánh niệm. Và như
vậy giải pháp của Phật giáo được đặt ra ở đây là
cần phát triển năm đặc tính: thái độ biết hổ
thẹn, niềm tin nhân quả, lòng từ bi, tâm vô ngã
và chánh niệm ở nơi mỗi người và cộng đồng người.
Mỗi người và cộng đồng cần được khuyên khích
thực hành những điều này.
Lòng từ bi là
mong muốn tất cả chúng sanh không còn đau khổ,
và xa hơn là giúp đỡ họ vơi bớt những khổ đau.
Lòng từ bi là một liệu pháp đối với sự sân hận
và ích kỷ đang hiện diện tràn lan trong xã hội
hiện nay. Sân hận trong Phật giáo được hiểu bao
gồm nhiều phương diện: ác tâm, giận dữ, ghanh
ghét, thù hận và sợ hãi. Và cúng chính từ đây nó
dẫn đến những hành động gây khổ, bạo lực và hành
xử hung bạo. Nhưng lòng từ bi chỉ thật sự có mặt
khi sự chấp ngã được giảm thiểu. Nói cách khác,
nếu sự chấp ngã còn quá sâu nặng, lòng từ bi
thật sự khó được phát triển. Và có lòng từ bi
thật sự, chúng ta mới không có những việc làm
hại mình hại người.
Đức Phật dạy rằng,
một việc làm được coi là thiện khi việc làm đó
phải lợi mình lợi người. Và không chỉ ở nơi việc
làm, ngay ở nơi ý nghĩ cũng không được phép khởi
lên ác ý, muốn làm hại người khác, “Bậc Hiền
trí, Ðại tuệ, không có nghĩ tự làm hại mình,
không có nghĩ tự làm hại người, không có nghĩ tự
mình làm hại cả hai, có suy nghĩ điều gì thời
suy nghĩ lợi mình, lợi người, lợi cả hai, lợi
toàn thể thế giới. Như vậy, này Tỷ-kheo, là Bậc
Hiền trí, Ðại tuệ.” (Tăng chi bộ kinh, IV,
số 186).
Thường thì chánh
niệm được xem như một nguyên tắc tu tập để để
đạt đến sự định tâm, là một pháp môn thiền tập.
Nhưng thực hành chánh niệm cũng là đang thực
hành đạo đức, nếu nhìn từ giáo lý Tam vô lậu học.
Và trong đời sống thực tế, từ bi và thái độ sống
vô ngã để có được rất cần đến yếu tố chánh niệm.
Có chánh niệm, chúng ta mới sáng suốt nhìn rõ
những gì đang xảy ra trong tâm mình và xung
quanh mình.
Khi chánh niệm
không được thực tập, chúng ta không thể nhìn
thấy được bản chất thực của các tư tưởng và cảm
thọ. Khi quán chiếu gốc rễ và thấy được được bản
chất thật của tri giác và cảm thọ, chúng ta sẽ
nhận thấy ra sự vô thường duyên sinh của hết
thảy hiện tượng. Và cũng từ đây, chúng ta thấy
được bản chất thật của cuộc đời và thân phận con
người. Biết rõ hơn về bản thân là thấu hiểu rõ
hơn về người khác. Có chánh niệm mới quán chiếu
được tính vô ngã của con người. Thấy vô ngã
không phải để thầy mình không còn gì, mà để nhận
thấy rằng mình và người không hai. Khổ đau của
người khác cũng là khổ đau của mình: “Bằng
việc bảo vệ mình, chúng ta bảo vệ người khác;
bằng việc bảo vệ người khác, chúng ta bảo vệ
chính mình” (Tương ưng 47, Satipatthana Samy,
số 19).
Trong Phật giáo,
lòng từ bi được xem như là một phẩm hạnh đạo đức;
nhưng chánh niệm cũng có thể được xem như là một
phẩm hạnh đạo đức. Việc cố ý gây khổ cho kẻ khác
hẳn là do vì thiếu tình thương. Nhưng gây khổ
cho người khác cũng vì không có chánh niệm. Xã
hội hiện này dường như có quá nhiều người đang
thiếu “chánh niệm”, không đang làm chủ được bản
thân và dẫn đến làm khổ người khác.
Việc đào luyện
tâm thức, từ bỏ những trạng thái tâm bất thiện
và việc chuyển đổi những điều chưa tốt trong xã
hội là một quy trình tương tác nội tại, biện
chứng. Theo quan điểm của Phật giáo Đại thừa,
mỗi người tìm kiếm sự giải thoát cho bản thân
mình qua việc phụng sự người khác, và như vậy sự
giải thoát của cá nhân không tách rời khỏi sự
giải thoát của tất cả chúng sanh. Đạt đến Phật
quả không chỉ là một tiến trình chuyển đổi cá
nhân mà còn là một sự chuyển đổi xã hội. Một
người thực hành những pháp môn tu tập là đang
bước trên con đường thánh đạo tìm đến Phật quả,
nhưng chính sự tu tập của vị ấy cũng trạo tặng
cho cuộc đời những giá trị đạo đức tốt đẹp,
thiện lành.

Một Xã Hội Tốt
Một xã hội tốt là
xã hội nơi đó những yếu tố văn hoá và đạo đức
được đề cao và tôn trọng. Phật giáo, rõ ràng,
cung cấp cho xã hội những chuẩn mực đạo đức và
có khả năng hướng con người đến những điều cao
thượng mà những tổ chức thế tục khác không thể
thay thế được. Chấp nhận Phật giáo và những giá
trị đạo đức Phật giáo, là điều cần thiết trong
việc cân băng cấu trúc xã hội hiện nay.
Một xã hội tốt,
theo Phật giáo, là phải giảm thiểu những yếu tố
khổ đau cả về thể xác lẫn tinh thần, là xã hội
mà những công dân được khuyến khích phát triển
trí tuệ nhận ra bản chất thực của con người và
cuộc đời để vượt qua những nghiệp chướng cá nhân
và xã hội. Phật giáo cung cấp cho xã hội những
giá trị như từ bi, bình đẳng, bao dung, sự tương
ái và tinh thần trách nhiệm cá nhân. Những giá
trị này giúp chuyển đổi cá nhân và xã hội theo
một chiều hướng tích cực.
Theo đức Dalai
Lama XIV, trách nhiệm phổ quát và một tấm lòng
tốt là hai nguyên tắc căn bản giúp xây dựng một
xã hội tốt. Có lòng từ bi, những cá nhân trong
cộng đồng sẽ có những hành xử tử tế với nhau,
biết giúp đỡ và tương ái lẫn nhau. Với trách
nhiệm phổ quát, mọi người sẽ không sa đà vào vấn
đề đỗ lỗi, và gây lỗi. Bất kỳ những vấn đề chưa
tốt nào của xã hội, mọi người cần thấy có trách
nhiệm và bổn phận của mình trong đó. Nhưng hẳn
nhiên những người lãnh đạo phải có trách nhiệm
lớn hơn.
Đức Phật dạy rằng
nếu những người lãnh đạo muốn dân chúng của họ
hòa hợp, tạo nên được một xã hội tốt, thì trước
hết họ phải là một người tốt, chân thật và tạo
nên được niềm tin. Một người lãnh đạo, ngoài tài
năng phải có, nếu họ thực hành năm giới, có lòng
từ bi và có trách nhiệm cá nhân, thì niềm tin
nơi người dân sẽ tăng trưởng. Lời khuyên của
Ngài rất đơn giản: hãy làm một tấm gương về tính
giản dị, không sống trong sự xa hoa, bởi vì nó
sẽ tạo ra một rào cản giữa người cai trị và
người bị trị. Những người lãnh đạo không thể có
được sự tin tưởng và sự kính trọng của người dân
nếu vị ấy không phải là một tấm gương tốt.

Sự hiện diện của
tôn giáo bên trong xã hội là điều cần thiết theo
quan điểm của đức Phật trong việc tạo ra một xã
hội tốt. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, khi nói
đến những nguyên tắc mà một xã hội cần trong
việc duy trì sự ổn định của nó,
Ngài có đề
cấp đến việc hiện diện thường xuyên của các Tăng
sĩ ở trong cộng đồng, xem như một yếu tố không
thể thiếu. Sự hiện diện của tôn giáo trong cộng
đồng, theo quan điểm Phật giáo, là tạo nên sự
cân bằng giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần.
Nhưng
hẳn nhiên, những Tăng sĩ hiện diện ở trong cộng
đồng phải đảm nhiệm được chức năng chính của
mình là đem lại cho dân chúng một đời sống đạo
đức thiện lành và một đời sống tâm linh vững
chãi. Thời đức Phật, Tăng chúng với những quy
định nghiêm ngặt dành cho họ, không hưởng lấy
quá nhiều vật chất đến mức làm tổn hại đời sống
của quần chúng, không tạo nên sự khó khăn cho
dân chúng về mặt kinh tế. Trong kinh Pháp cú đức
Phật khuyên các Tỳ-kheo khi đi khất thực chỉ nên
như một con ong hút mật hoa, không được làm tổn
hại bông hoa đó. Và hẳn nhiên, một vị Tăng sẽ
không nhận được sự hỗ trợ và cúng dường của dân
chúng nếu vị ấy vi phạm những chuẩn mực dành
cho mình.
Những giá trị đạo
đức phải luôn được nuôi dưỡng và phát triển suốt
theo cuộc đời của một con người. Sự hiện diện
thường xuyên của tôn giáo trong một cộng đồng
giúp duy trì những giá trị tâm linh và chuẩn mực
đạo đức một cách tương tục trong cộng đồng đó.
Người Phật tử học Nhân quả, Ngũ giới, Thập thiện,
Bát chánh đạo, Lục độ ba-la-mật… không phải chỉ
một lần. Những chuẩn mực sống và tu tập này được
lập đi lập lại mỗi ngày, trở thành một thứ hành
trang, một lẽ sống không tách rời khỏi họ.
Đề cao một tôn
giáo và giải pháp của nó cho những vấn đề xã hội
không phải để cỗ vũ mọi người nên theo hệ thống
tín ngưỡng đó. Quan điểm đơn giản rằng, chúng ta
không thể bỏ qua những giải pháp của một tôn
giáo đối với những vấn đề xã hội khi những biện
pháp thế tục không thể giải quyết rốt ráo được
những vấn đề khủng hoảng đạo đức của xã hội đó.
Dù tin hay không tin Phật giáo, chúng ta không
nên từ chối những phương pháp chuyển đổi con
người mà chúng có mặt nơi hệ thống giáo lý vô
cùng phong phú này.
Một
xã hội chỉ trở nên tốt đẹp khi có nhiều cá thể
sống hướng thượng; một cộng đồng chỉ có thể thay
đổi theo chiều hướng tích cực khi nhưng cá nhân
có sự thay đổi tích cực. Theo đuổi chuyển đổi
nhóm xã hội mà không có sự chuyển đổi cá nhân
thì khó hy vọng đem lại sự tốt đẹp đích thực cho
một xã hội.
Nói cách khác,
phát triển đạo đức không chỉ là phát triển một
tập hợp các quy phạm kiểm soát từ bên ngoài, mà
trước hết cần phải phát triển sự nhận thức đạo
đức và đào luyện tâm thức nơi mỗi con người.
Đức Phật dạy rằng
cuộc đời không thể được cải đổi nếu tâm người
không được cải đổi. Đạo đức là nền tảng, là
xương sống của một xã hội, do đó những giá trị
đạo đức của tôn giáo cần phải được nhìn nhận để
phát triển đúng mức trong việc phát triển một xã
hội thịnh vượng…
Thích Nguyên Hiệp
(theo
Hoa Linh Thoại)


|