Quan Niệm Về Sống - Chết

Nguyên Hiệp dịch

 

Hầu hết mọi hệ thống tư tưởng, chính trị và triết học chỉ giải quyết vấn đề con người khi sống. Như Khổng Tử nói: “Sống còn chưa biết, làm thế nào biết được chết?”. Từ quan niệm này nên người ta thường cho rằng quan tâm đến những vấn đề liên quan đến con người khi còn sống thì quan trọng và thực tiễn hơn là quan tâm đến những vấn đề về con người sau khi chết.

Tuy nhiên, cách trả lời này đã né tránh câu hỏi làm nhiều người thắc mắc là: “Sự thật về cái chết và điều gì sẽ xảy ra sau khi chết?” Thực ra, nếu chúng ta hiểu được những gì xảy ra sau khi chết thì thái độ của chúng ta đối với cuộc sống sẽ có rất nhiều thay đổi theo chiều hướng tốt hơn.

Cần lưu ý là Khổng Tử không nói rằng chết là tận diệt, là hết; ông cũng không nói rằng không có một đời sống tương lai sau khi chết. Đơn giản ông chỉ muốn nói: sống làm một con người có khuôn phép, có đạo đức thì quan trọng hơn đặt câu hỏi về bản chất của đời sống sau khi chết.

Tuy thế, hầu hết các tôn giáo đều có lời dạy về cuộc sống sau khi chết. Có hai học thuyết đề cập đến cái chết có ảnh hưởng trong số các tôn giáo trên thế giới: một là học thuyết một đời sống và học thuyết khác là học thuyết nhiều đời sống.

Thiên Chúa giáo là một trong các tôn giáo giảng dạy về học thuyết một đời sống. Theo học thuyết này thì cuộc sống của thân thể vật lý bắt đầu tại lúc được sinh ra, nhưng cũng có một thực thể tâm linh được gọi là “linh hồn” cư ngụ trong thể xác đó. Chết là sự hủy bỏ xác thân, nhưng linh hồn thì không. Sau khi chết, linh hồn tùy thuộc vào sự phán xét của đấng Tạo hóa, hoặc sẽ được lên thiên đường, hoặc sẽ bị đọa xuống địa ngục. Điều này hàm ý rằng, mỗi người chỉ có một cuộc sống trên trái đất và sau đó sẽ tồn tại vĩnh cữu hoặc đầy ân phúc trên thiên đường, hoặc chịu khổ đau ở trong địa ngục, hoàn toàn không có cơ may thoát khỏi. Hàm ý này có trình bày một sự hiểu biết trọn vẹn về lời dạy của Thiên Chúa hay không thì chưa rõ. Rất có thể Chúa có nhiều điều để thuyết giảng về việc sống chết nhưng Chúa không có thời gian để mang đến cho môn đồ của mình một trình độ hiểu biết cao hơn.

Học thuyết về nhiều đời sống cho rằng, sự sinh ra và chết đi của một chúng sinh chỉ là một khoen trong chuỗi mắt xích vô số kiếp sống của chúng sinh đó. Trong nhiều kiếp sống khác nhau, chúng sanh đã đi lang thang trong sáu cảnh giới hiện hữu: cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la, cõi ngạ qủy, cõi súc sinh và cõi địa ngục. Sau khi chết, con người sẽ tái sinh vào một trong các cảnh giới này. Người ấy có thể tái sanh trở lại làm người, nhưng cũng có thể làm một vị thiên, súc sanh, a-tu-la hay một chúng sanh trong cõi địa ngục. Sự thay đổi hình thức đời sống hay sự hiện hữu tiếp diễn không hạn định mãi đến khi nào chuỗi mắt xích này bị phá bỏ. Điều này mỗi khi xảy ra thì khái niệm sanh tử không còn ý nghĩa đối với người đó nữa.

Ấn Độ giáo và Phật giáo thừa nhận học thuyết nhiều đời sống này, nhưng có một sự khác biệt tương đối lớn trong quan điểm của họ về sự phá vỡ chuỗi mắt xích. Ấn Độ giáo giữ vững niềm tin rằng vấn đề sanh tử trở nên vô nghĩa khi con người thể nhập với Brahman - Phạm Thiên Toàn Năng. Phật giáo cho rằng con người giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử khi đạt được giác ngộ.

Để hiểu được quan niệm của Phật giáo, trước hết chúng ta phải hiểu rằng Phật giáo giải thích vấn đề này ở hai tầm mức. Thứ nhất là tầm mức giác ngộ, đó là lúc mà chân lý tối hậu được chứng nghiệm. Và thứ hai là tầm mức thế tục, tức là ở tầm mức hiểu biết thông thường.

Ở tầm mức giác ngộ, khái niệm về sống và chết không còn được bàn đến nữa. Tôi sẽ giải thích điều này sau. Tuy nhiên, ở tầm mức thế tục, Phật giáo tin vào học thuyết nhiều đời sống và thừa nhận dòng tâm thức của một chúng sanh. Trong trường hợp này, dòng tâm thức có thể tạm so sánh với Linh hồn trong Thiên Chúa giáo và Tự ngã trong Ấn Độ giáo. Trong Phật giáo, tâm thức của một chúng sanh được miêu tả như một dòng suối, trong đó, một khoảnh khắc sau được tạo ra bởi một khoảnh khắc trước. Xin đưa ra thí dụ về xâu chuỗi hạt. Sự di chuyển mỗi hạt chuỗi quyết định sự di chuyển của hạt chuỗi kế tiếp. Tuy nhiên điều quan trọng là những hạt chuỗi này được liên kết lại với nhau bằng một sợi dây; không có một thực thể vĩnh cữu vượt ra khỏi con đường nhân quả.

Như vậy trong Phật giáo, sự tiếp nối của sinh mạng không có nghĩa là thân thể vật lý được chuyển tiếp vào đời sống kế tiếp, hay mọi thứ chứa trong bộ não của con người (nó cũng là một phần của thân thể vật lý) sẽ chuyển sang đời sống kế tiếp. Sự thật, thân thể vật lý thay đổi trong từng sát na. Cái được chuyển tiếp vào đời sống kế tiếp hay những đời sống tương lai, và cấu thành sự miên tục của sinh mạng là sức mạnh ảnh hưởng của những hành vi con người trong đời sống hiện tại này và trong nhiều đời sống trước. Cả Phật giáo và Ấn Độ giáo gọi điều này là nghiệp.

Đến đây, chắc bạn muốn nói: “Điều đó thú vị đấy, nhưng 1: vui lòng chỉ cho tôi thiên giới và địa ngục có thể tìm thấy ở đâu? Và 2: vui lòng chứng minh cho tôi rằng, tôi đã tồn tại trước khi tôi sinh và sẽ vẫn còn hiện hữu sau khi chết như thế nào?”

Để trả lời cho câu hỏi đầu tiên tôi xin được hỏi: Bạn có tin rằng mắt của bạn có thể nhìn thấy được thiên giới hay địa ngục không? Nếu một người nào đó chỉ cho bạn thiên giới hay địa ngục, bạn sẽ không nói rằng đó chỉ là một ảo tưởng, và do đó không tin nó chứ? Nếu bạn đã nghiên cứu về dòng điện từ, bạn có thể đồng ý với tôi rằng mắt con người của chúng ta chỉ có thể nhìn thấy được một phần rất nhỏ của vũ trụ, và có rất nhiều thứ mà mắt thường của chúng ta không thể nhìn thấy được. Một vài trăm năm trước đây không có người nào có thể nhìn thấy tổng thể cấu trúc bộ xương của một người đang sống, nhưng bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy thông qua dụng cụ rọi X-quang. Chúng ta đang tiến bộ nhanh chóng vào thế giới siêu vi cũng như lĩnh vực không gian. Ai biết, có thể trong nhiều năm sau, một thiết bị khám phá mới sẽ được phát minh, và phương tiện đó sẽ giúp con người nhìn thấy một độ sóng dài khác từ sóng ánh sáng mà hiện giờ chưa nhìn thấy được. Lúc đó con người có thể khám phá ra rằng, cái được gọi là địa ngục thì ở ngay trên trái đất này; hay những thiết bị về không gian sẽ gửi trở lại một vài bức ảnh về không gian mà những bức ảnh đó chụp lại một trong những cõi trời hay những thế giới mà Phật giáo đã thừa nhận.

Còn để chứng minh rằng con người đã tồn tại trước đó và vẫn tiếp diễn sau khi chết thì có một số tài liệu đã đề cập đến. Những tài liệu này ghi lại rằng, có những người bình thường đã nhớ lại được những đời sống quá khứ của họ, hoặc cụ thể như các vị Lạt Ma Tây Tạng, họ có thể tiên đoán nơi mà họ sẽ tái sanh trở lại.

Nhưng ở đây tôi muốn sử dụng một phương pháp khác để chứng minh điều này. Có một vài hiện tượng trong vũ trụ mà chúng ta có thể dùng để giải thích khái niệm về Sanh và Tử, và điều này có thể đưa ra một vài đầu mối để trả lời cho câu hỏi đầy bí ẩn mà các bạn muốn hỏi ở trên. Lý do đơn giản đã thuyết phục tôi rằng giải pháp này có giá trị là vì con người chúng ta không khác hơn một sản phẩm của tự nhiên và hoàn toàn bị chi phối bởi những định luật tự nhiên như trọng lực. Do đó, những định luật biểu thị đặc tính của những hiện tượng tự nhiên khác có thể áp dụng thích hợp đối với con người. Khi tôi nghiên cứu câu hỏi này, thú vị thay, tôi đã tìm ra một vài hiên tượng trong vũ trụ có sự tương ứng thích hợp đối với học thuyết nhiều đời sống. Hiện tượng đơn giản nhất và dễ dàng nhất để chúng ta lãnh hội là sự đa dạng của H2O.

Chúng ta đều biết H2O phải không? Vâng, H2O là công thức hoá học của nước. Nghĩa là cứ hai phân tử Hydro thì có một phân tử Oxy. Công thức H2O không thay đổi dù khi nước bốc hơi tại điểm sôi hay đóng thành băng tại điểm đông đặc. H2O không sai khác khi nó ở dạng hình thể kết tinh trắng, đẹp mà người ta thường gọi là tuyết; hay trong trường hợp chất lỏng, giăng mắc trong không trung và người ta thường gọi là sương.

Đến đây một ý tưởng rất thú vị sinh khởi. Nước biến mất khi nó biến đổi thành hơi nước hay đông thành đá. Bạn sẽ không nói rằng vào lúc đó, nước chết đi và hơi nước hay đá được sanh ra phải không? Hay khi tuyết tan và trở thành nước, vào lúc đó bạn sẽ không nói rằng tuyết bị chết và nước được sanh ra phải không? Điều này sẽ đúng khi nước đơn giản được xem là nước. Tuy nhiên, nếu nước không những được nhận diện là nước mà còn là H2O thì khi đó khái niệm về sinh ra và chết đi không còn là vấn đề nữa. H2O vẫn không thay đổi khi hình thức của nó chuyển từ nước sang hơi nước hay băng và ngược lại. H2O thật sự không bị trải qua “sống và chết” mặc dầu hình dáng và các đặc tính vất lý của nó có thể biến đổi thành những tên gọi khác nhau. H2O cũng sẽ không bị chết và tái sinh trong tương lai cho dù hình thái và các đặc tính vật lý của nó sẽ thay đổi rất nhiều lần, mãi đến cuối cùng H2O bị phân chia thành Hydro và Oxy.

Từ phép suy loại này chúng ta có thể thấy rằng học thuyết về nhiều đời sống như Ấn Độ giáo và Phật giáo đã đưa ra thì chí lý và gần với sự thật hơn những học thuyết khác. Do đó, tôi suy ra những kết luận sau đây:

1- Trong vũ trụ cũng có một thực thể tương tự như H2O. Thực thể đó, tôi tạm thời gọi là “X”. Từ X này, biểu hiện ra những hình thức khác nhau của một chúng sanh, tức là: chư thiên, loài người, A-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh và chúng sanh ở địa ngục. Trong Thiên Chúa giáo và Ấn Độ giáo, X được gọi là linh hồn.

2- Sáu hình thức hiện hữu luôn chuyển đổi vị trí. Như một con người có thể tái sanh làm một vị thiên, A-tu-la, súc sanh, ngạ quỷ hay chúng sanh ở địa ngục. Cũng như vậy một chúng sanh ở địa ngục cũng có thể tái sanh ở những hình thức khác nhau bao gồm cả loài người.

3- Theo Phật giáo, một người không thể sống trên thiên giới mãi mãi hay đọa vào trong địa ngục vĩnh hằng. Cuộc sống luôn tiếp diễn, hình thức của nó thay đổi liên tục. Hiện tượng trôi chảy liên tục của chết đi và tái sanh trở lại trong sáu cảnh giới này được gọi là luân hồi tái sanh.

4- Khái niệm về sanh và chết chỉ có nghĩa khi nào con người được đề cập đến như một đối tượng cụ thể. Nếu vấn đề được chuyển đổi trở lại chính bản chất nguyên thủy của đối tượng đó thì khái niệm về sống và chết không còn tác dụng. Nước và H2O là một ví dụ: nước là một đối tượng được xác định cụ thể, nó có thể thay hình đổi dạng, nhưng H2O thì bản chất nó luôn luôn như vậy dù khi nó ở dạng nước, tuyết, hay sương.

5. Đây là điều quan trọng: nếu một người còn chấp chặt mình là một con người có tự ngã thì người ấy còn phải trải qua sống và chết. Cũng như thế áp dụng đối với nước: nếu nước được nhận diện như là nước thì chúng ta thấy nó có sinh ra và mất đi khi nó thay đổi hình dạng. Nhưng nếu một người nhận mình như là X, thì không có sự chết đi, dù khi hình dạng của X biểu hiện dưới hình thức một con người bị hủy diệt. Như vậy ta thấy, chỉ có một sự thay đổi liên tục về hình thức, trong khi X vẫn không thay đổi. Thêm nữa, áp dụng tương như vậy, nếu nước được xem như là H2O thì nước không có sinh ra mất đi. Do đó, nếu chúng ta khát khao chấm dứt sanh tử luân hồi, điều đầu tiên chúng ta nên làm là xa rời việc chấp thủ tự ngã.

Đáng tiếc thay, điều này hoàn toàn đi ngược lại bản năng dục vọng của chúng ta. Chúng ta xưa này luôn chấp thủ rằng chúng ta là những con người thực hữu, và đó là lý do tại sao chúng ta trầm luân trong luân hồi. Như thế mục đích cốt tủy của lời dạy đức Phật là giúp chúng sanh tự giải thoát ra khỏi luân hồi. Do đó, cốt tủy của Phật giáo là dạy con người nên xem mình như X. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là Phật giáo không dạy chúng ta xem X như là linh hồn. Linh hồn không phải là thực thể tối hậu; nó vẫn bị chết đi, giống như H2O bị phân thành Hydro và Oxy. Phật giáo dạy chúng ta xem bản thân mình như X khi được giải thích ở tầm mức giác ngộ. Ở tầm mức giác ngộ, chúng ta biết rằng X là điều không thể lãnh hội được bằng giác quan con người, mà nó chỉ có thể được thực chứng và được thừa nhận bằng tuệ giác. Nhưng nếu vấn đề là như vậy thì làm sao chúng ta có thể hiểu và giải thích nó đây? May mắn thay, bằng khoa học hiện đại, tôi đã tìm ra một điều mà nó có thể giúp chúng ta rất nhiều nhằm hiểu được việc giải thích về X ở cấp độ giác ngộ. Đó là năng lượng.

Trong khoa học hiện đại mà chúng ta học thì vạn vật ở trong vũ trụ đều là hình thức của năng lượng. Điện, hơi nóng, ánh sáng, lửa, âm thanh, phản ứng hóa học, vật chất.., tất cả đều là những biểu hiện khác nhau của năng lượng. Chúng ta không thể nhìn thấy, nghe, ngửi, nếm, hay xúc chạm năng lượng, nhưng khắp nơi trong vũ trụ những hình thức của nó thì vô số lượng, có thể nhìn thấy, nghe thấy, ngửi được, nếm được, xúc chạm hay nói cách khác là nó được khám phá bằng các giác quan của con người. Do đó, năng lượng được xem như cái cốt lõi của vạn vật.

Tuy nhiên, cần ghi nhớ rằng, năng lượng cũng chỉ là một danh xưng do con người đặt ra. Sự thực, định nghĩa về năng lượng đã được thay đổi từ khi từ này lần đầu tiên được sử dụng. Như vậy, xin đừng chấp chặt cứng nhắc định nghĩa của từ điển về từ ngữ. Tôi có thể lý giải từ này khác hơn những nhà khoa học đã thực hiện. Từ năng lượng, như tôi dùng nó ở đây, được đặt cho một vật nào đó trong vũ trụ mà nó bao hàm toàn thể vạn vật, và không thể nhìn thấy, nghe, ngửi, nếm, hay xúc chạm bằng các quan năng của con người, nhưng bản thân nó có thể biểu lộ trong trong rất nhiều hình thức khác nhau mà chúng ta có thể khám phá được bằng các giác quan. Bởi vì nó bao hàm trọn vẹn toàn thể vạn vật, nó không thể bị tăng lên hay giảm xuống; nó không có sự chuyển động. Tóm lại: năng lượng là vũ trụ và vũ trụ là năng lượng.

Nếu bạn có thể lãnh hội được những gì tôi vừa trình bày ở trên về năng lượng thì bạn sẽ không gặp mấy khó khăn trong việc hiểu X như đã được giải thích theo Phật giáo ở tầm mức giác ngộ. Theo Phật giáo, dựa vào giác ngộ, con người có thể nhận chân được X của họ, và chính X đó, bao hàm hết thảy vạn vật; X đó là vạn vật và vạn vật là X; X không bị tăng hay giảm; X đó như như bất động, và X đó không ô nhiễm cũng không thanh tịnh.

Bởi vì quá khó khăn để giải thích X và lĩnh hội được X, cho nên hơn 2.500năm qua, những nhà Phật học đã đặt cho nó nhiều tên gọi khác nhau trong nỗ lực làm sáng tỏ khái niệm. Thuật ngữ đơn giản nhất, theo ý tôi là “Bản Thể”. Chữ “thể” có nghĩa rằng tất cả thế giới hiện tượng đều phát xuất từ đó, thay vì hiện hữu riêng lẻ. Khác với quan niệm về linh hồn, bản thể không hàm ý sự riêng biệt của một cá thể. Không thể có những bản thể khác nhau: X này là của tôi, là của anh, là của mọi người, và của vạn vật. Do vậy, có thể nào X lại bị chết? Làm thế nào có thể áp dụng khái niệm về sống và chết đối với X? Cho nên, bản thể này là điều chúng ta cần nhận biết.

Chúng ta chỉ biết được điều này rõ ràng khi chúng ta giác ngộ và thể tánh của chúng ta được hiển lộ; còn nếu chúng vẫn còn trầm luân trong sinh tử luân hồi thì khó lãnh hội được. Do đó, Phật giáo là một bài học mà chúng ta nên nghiên cứu một cách nghiêm túc, bởi vì nó cung cấp cho chúng ta nhưng phương pháp nhận chân và thừa nhận bản thể của chúng ta. Bằng cách này chúng ta có thể giải thoát chính mình ra khỏi sự sống chết vô cùng tận, là nguồn gốc của tất cả mọi khổ đau.

Tuy nhiên, tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng, trong đời sống hàng ngày của chúng ta, học thuyết về nhiều kiếp sống thậm chí còn quan trọng hơn cả tuệ quán về X, bởi vì tất cả chúng ta đều chưa giác ngộ và vẫn còn bị luân hồi. Sẽ hết sức sai lầm khi thờ ơ với học thuyết nhiều đời sống và nghĩ đơn giản: “Tôi là vạn vật và vì thế không có sự chết đi”, cho nên khi cái chết đến, chúng ta vẫn còn sợ hãi.

Để kết luận buổi nói chuyện hôm nay, tôi xin trình bày một vài quan điểm của tôi về hai hiện tượng xã hội quan trọng trong đời sống hàng ngày của chúng ta:

1. Giết người không có nghĩa là sự loại trừ một đối thủ và giành lấy được chiến thắng như con người thường nghĩ. Bởi vì chỉ có hình thức con người vật lý bị hủy hoại, nên nạn nhân vẫn còn hiện hữu. Do vậy đó không phải là một sự chiến thắng, và điều đó có thể là đầu mối của những vấn đề bất an.

2. Tự sát không có nghĩa là kết thúc khổ đau. Thân thể con người vật lý có thể bị hủy bỏ nhưng đời sống vẫn tiếp tục. Vấn đề đó có thể trở nên phức tạp và nghiêm trọng nhiều hơn từ kết quả của việc tự sát.

Như tôi đã nói ngay lúc bắt đầu buổi nói chuyện này, thái độ sống có thể thay đổi rất nhiều nếu chúng ta biết được những gì xảy ra sau cái được gọi là chết. Những khoa học gia, những chính trị gia và triết gia nào mà làm ngơ với vấn đề quan trọng này thì có thể đang dấn thân vào sự sai lầm nghiêm trọng vì sự thiển cận của mình. Bởi vậy, chúng ta cần phải thận trọng và cân nhắc khi đánh giá một vấn đề./.

 

Nguyên Hiệp dịch

=============================

CÁC AUDIO LIÊN QUAN

===========

 

Book-Review "TỬ THƯ TÂY TẠNG"

Nguyên Phong

Tibetan Book of the Dead - Tử Thư Tây Tạng 01 (mp3)

Tibetan Book of the Dead - Tử Thư Tây Tạng 02 (mp3)

 

 

BÊN KIA CỬA TỬ

Nguyên tác: Giám mục Charles Leadbeater - Việt dịch: Nguyên Phong

Bên Kia Cửa Tử - phần 01 (mp3)

Bên Kia Cửa Tử - phần 02 (mp3)

 

 

TÂY TẠNG HUYỀN BÍ (nguyên tác Anh ngữ: THE THIRD EYE)

Nguyên tác: Lama Lobsang Rampa - Bản phóng tác: Nguyên Phong

Giọng đọc: Tâm Từ & Nhóm Sen Thanh Đọc Kinh Truyện

Tây Tạng Huyền Bí – Phần 1

Tây Tạng Huyền Bí – Phần 2

Tây Tạng Huyền Bí – Phần 3

Tây Tạng Huyền Bí – Phần 4

Tây Tạng Huyền Bí – Phần 5

Tây Tạng Huyền Bí – Phần 6

Tây Tạng Huyền Bí – Phần 7

Tây Tạng Huyền Bí – Phần 8

 

 

 

 

 
 
simple stats
lượt đọc kể từ Mùa Phật Đản 2552 - 2008