TRÁCH KỶ
Cư sĩ ĐỨC VÂN
Sách dạy:
“Tiên xử kỷ nhi hậu xử bỉ”. Việc xét lại bản
diện mình khó thật! Phê phán, soi mói chuyện
thiên hạ (thiên hạ sự) là dễ, thường tình, đó là
tiện tánh chung của người đời.
Song le,
cái tiện tánh phần Thức nầy, duyên khởi tại nơi
phần Thân mà ra. Nhục thể nhân sinh hay nhân
thân (cơ thể con người) do tạo hoá nặn ra
(design) chưa hoàn chỉnh. Cặp mắt ta chỉ nhìn về
phía trước, không nhìn lui đằng sau được! Vậy
chăng có phải là lỗi kỹ thuật, lỗi của Designer?
Trong luật
thi lái xe của Mỹ, họ lưu ý, khuyên tài xế,
ngoài việc thường xuyên nhìn vào ba cái kiếng
chiếu hậu (back miror) còn nên quay nhìn về phía
sau, cho chắc ăn.
Cổ nhân
cũng đã khuyên ta nên “hậu xét”, tức nhìn lại
cách hành xử của mình trong ngày qua, mỗi tối
trước khi ta chuẩn bị lịm vào giấc điệp. Thế
nhưng mấy ai thấy được cái sai quấy của mình
trong ngày? Họa chăng các nhà hiền triết, cao
hơn có Bồ Tát.
Bởi sao?
Do có quan niệm hạn chế, bị định kiến chi phối,
phân chia xấu hay đẹp, thích hay không thích.
Phật pháp gọi là Sở Tri Chướng. Gọi Chướng, vì
nó ngăn ngại Trí Bồ Đề. Ví như cá nhân tôi, mắc
bệnh loét bao tử kinh niên từ thời học thi bằng
Trung học ĐNC, nên sợ cơm khô, thích cơm nhão.
Tôi cho nhão là ngon (mọi người trong gia đình
nói trái lại). Mỗi buổi ăn thấy cơm khô là giận
sôi gan. Giận ai, bà xã hay con dâu? Đâu có đâu!
Tôi vướng mắc vào Vô minh, bị Sở Tri Chướng ấy
mà.
Sách nói,
mà sách lại được viết từ bản thân “con người hữu
duyên” ở nhân gian hay trần thế, “ Phật có 32
tướng tốt, 80 vẻ đẹp”. Anh có thấy vậy không?
Tôi có thấy được không? Hàng Bồ Tát lại thấy,
Phật không thân, với báu thân tròn sáng thanh
tịnh trùng khắp. Nhưng ở cõi địa ngục, ngạ quỷ
thấy, Phật như chân voi đen, dài ba thước! (Ngài
Hiền Thủ, Tổ thứ ba Tông Hoa Nghiêm)
Cũng một
bóng trăng soi xuống nước, mà ta thấy nhiều hình
ảnh biến hiện khác nhau, chỉ vì nó liên quan
trực hay gián tiếp đến Duyên Nghiệp từng loài:
Nước
trong, trăng tỏ.
Nước đục,
trăng mờ.
Nước chao,
trăng vỡ.
Nước lặng,
trăng nguyên.
Chính con
người trần tục tôi cũng vậy. Hồi ở quê nhà, sau
1975, tôi là kẻ buôn lậu. Ra xứ người, tỏ ra là
văn nhân (có văn hóa và nhân ái). Xứ mình, không
buôn lậu sao sống? Qua xã hội văn minh, buôn lậu
bị vào tù! Ở môi trường nào, cái cốt tủy “tôi
vẫn là tôi”. Chỉ có thể như loài kỳ nhông, đổi
màu theo mùa, theo môi trường để sống còn, theo
luật sinh tồn tạo hoá (Lizards or geckos change
color to camouflage themselves).
Trở lại ý
niệm Trách kỷ.
Con người
dễ dàng bị tự kỷ ám thị. Ám là tối mò đó vậy.
Ai cũng
đọc Tô Đông Pha, đời nhà Tống bên Tàu. Tuổi trẻ
đỗ cao, thơ văn lỗi lạc, thói thường ngạo mạn,
ông đã hơn một lần bị “hố” vì sửa thơ Tể tướng
Vương An Thạch. Tô Đông Pha chê hai câu thơ của
ngài Tể Tướng:
“Minh
nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng
khuyển ngọa hoa tâm”.
Là không
thực. Ông lý luận, “Trăng thanh sao lại hót? Chó
vàng sao nằm giữa cánh hoa?” Ông chỉnh văn lại:
“Minh
nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng
khuyển ngọa hoa âm”.
Thi sĩ đắc
chí... “Trăng sáng chiếu trên đỉnh núi. Chó vàng
núp dưới bóng hoa”. Thật tuyệt!
Trên bước
hoạn lộ thăng trầm, vì một phần tánh khí ngã
mạn, phần chống đối, muốn cải cách nền pháp trị
đương quyền, ông bị đày xuôi nam xa xôi với chức
quan nhỏ, giao du đó đây, té ngửa ra, ở vùng
rừng núi phương nam có một loài chim được đặt
tên là chim Minh Nguyệt (danh từ riêng), và một
loài sâu có tên là Hoàng Khuyển. Từ chữ khiếu
(hót) ra chữ chiếu (soi) rồi chữ tâm (giữa) qua
chữ âm (bóng) mở thêm kiến thức cho chàng thi
sĩ, vị quan trẻ tuổi, giảm bớt tánh ngạo mạn.
Bài học, có kiến thức trường học chưa đủ, cần
phải từng trải đó đây, lăn lóc trường đời nữa,
đã giúp ông tìm chốn Thiền môn học hỏi. Ông
nghiêng về Thiền, thường lui tới chùa Kim Sơn
đàm đạo với ngài Thiền sư Phật Ấn.
Một hôm,
hỏi Thiền sư:
- Thầy thấy
con tọa thiền ra sao?
- Trang
nghiêm như Phật; ngài Phật Ấn trả lời.
Nhìn vẻ
phấn khởi của Tô Đông Pha, Thiền sư hỏi lại:
-
Còn học sĩ thấy tôi tọa thiền thế nào?
Không bỏ
hở cơ hội tỏ tánh cao ngạo của mình, mau mắn
đáp:
-
Như đống phân bò.
Chẳng thấy
Thiền sư trả lời, Tô Đông Pha hí hửng trong
bụng, phen nầy ta thắng Sư ông rồi. Sau đó đem
câu chuyện kể cho em gái Tô tiểu muội nghe. Cô
ta lắc đầu:
- Sư huynh
ơi, tâm Thầy như tâm Phật, nên nhìn huynh trang
nghiêm như Phật. Tâm huynh như phân bò, chẳng
trách huynh nhìn Thầy như đống phân bò!
Mắt người
thường lầm, đánh giá sai chân tướng của sự việc
và sự vật. Duyên do nhãn lực tự có, cộng môi
trường xúc tác bao quanh. Tại các chùa, thường
thấy phụng thờ tượng hai vị: Một, mặt trắng đẹp
hiền, ông Thiện. Một, mặt dữ, lưỡi dài mắt đỏ,
ông Ác. Thật ra đó là ngài Tiêu Diệm, hiện thân
của đức Quán Thế Âm Bồ Tát để giáo hoá cõi ngạ
quỷ đó thôi.
Phản cầu
chư kỷ, muốn đề cập (cái sai trái) của người
khác, phải đòi hỏi nơi mình trước đã. Tức là về
phương diện đạo đức, thì phải tự xét mình trước,
rồi sẽ thẩm định, phê phán người khác sau. Làm
thế nào hoá giải được hiện tượng gọi là “Tự kỷ
thôi miên”, tức tự mình thôi miên mình, tự sai
khiến mờ tối, vô tâm thức.
Để “Trách kỷ”,
Nho giáo còn chủ trương “Khắc kỷ phục lễ”, sửa
mình theo lễ:
Phi lễ
vật thị, đừng ngó gì trái lễ (che mắt).
Phi lễ
vật thính, đừng nghe gì trái lễ (bịt tai).
Phi lễ
vật ngôn, đừng nói gì không thuận lễ (câm mồm).
Phi lễ
vật động, đừng làm gì trái lễ (bó tay).
Từ đó con
người ý thức, việc gì mà mình không muốn ai làm
cho mình, thì đừng làm cho người khác, “Kỷ sở
bất dục vật thi ư nhân” là vậy. (sách CN&ĐSM-
Thành Ngữ Hán Việt Thông Dụng - Nguyễn Ngọc
Phách dịch: Do not do to others that which you
do not wish to be done to yourself).
Tôi đọc
được một đoạn chuyển ngữ, không biết của ai
viết, trên một website: “ Hãy yêu thương những
ai đối xử đẹp với ta. Hãy cầu Trời tha thứ cho
những kẻ…xử tệ với ta. Nhớ đừng lấy cộng rác nào
của họ để rảy lên những người khác, nơi mình làm
việc, trong gia đình mình, hay cho những người
mình gặp trên đường phố. Rác rưởi càng chồng
chất, thì họ lại càng muốn tìm được nơi nào trút
bỏ, và đôi khi họ nhằm ngay chính bạn để trút
đống rác đó. Vậy tại sao bạn lại phải chuốc lấy
rác nầy nhỉ!” ( Lấy từ Vietnamese Single
Network).
Là Phật tử
hoặc chưa dám tự nhận là đệ tử của Phật, chúng
con đi lễ Phật, nương bóng cửa Thiền, cận kề chư
Tăng học Đạo, những mong thắp sáng nghiệp thức,
hóa giải u ám, nghiệp chướng của mình. “Cha mẹ
cho thân, Thầy cho trí. Trí giúp chuyển hoá
những duyên nghiệp oan khiên trong đời, giúp ta
vững vàng sống trong cõi vô thưòng tạm bợ”.
Trong mối tương giao Thầy trò, cũng lắm đắng
cay! Đôi lúc thấy Thầy quá nghiêm khắc, đôi khi
thấy…khó ưa! Chúng con từng nhận những “cái tát,
mắng” từ Thầy mình. Ví như đạo sinh Gisho nhận
những cái tát nẩy lửa từ Thiền sư Inzan vậy. Dằn
Tâm nếm trải. Nếm để trưởng thành. Nếm để hun
đúc con người mình, tôi luyện thêm cứng cáp. Nếm
để bất động với mọi xáo động vô thường, lừa
phỉnh chung quanh. Được vậy không, nếu không
huân tập được sức chịu đựng dẻo dai bản thân?
Cho nên, thời nay Tu ít đạt, học Đạo khó thành.
Cả hai đối tượng phản chiều, giới Tăng sĩ và
giới Cư sĩ, Thầy lẫn trò, đều biết tựa vào nhau,
có bổn phận tương kính nhau. Cố nén Tham Sân Si
để đạt Đạo. Mặc dù lúc nào chúng con cũng vẫn
tâm niệm: “ Không có Thầy bên cạnh giúp mình
buông bỏ, thì rồi một kiếp tơ tầm lại hoàn một
khiếp tầm tơ!”(Theo quyển Ý Tổ Sư Trên Đầu Ngọn
Cỏ của Chân Hiền Tâm).
Cẩn khai
trọng niệm Một câu Di Đà,
Một câu Di Đà
Cũng Có cũng Không
Núi sông như mộng
Hoa liễu như sương
Một câu
Di Đà
Chẳng Có
chẳng không
Cùng nhau
biến chuyển
Trên lò
nước trong
Một câu Di Đà
Không khó không dễ
Chín phẩm hoa sen
Một đời gắng sức.
( Trích đoạn -
Tịnh Độ Giáo Nghĩa – Úc châu)
Nam mô Đương Lai
Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật
Chớm Xuân nắng ấm
Atlanta – March 2010
Đức Vân cư
sĩ
|