TỪ BI HỶ XẢ ĐI VÀO XÃ HỘI

Nguyễn Thế Đăng

 

Từ Bi Hỷ Xả là bốn tâm mà con người có thể phát triển đến vô lượng (bốn vô lượng tâm) để trở thành một con người lý tưởng, một con người toàn thiện, một vị Phật. Ở đây, chúng ta chỉ phác qua một định nghĩa sơ lược, vì trong kinh điển chỗ nào cũng có nói đến, và cũng vì trong mỗi người, chúng ta cũng có thể hình dung thế nào là Từ Bi Hỷ Xả.

Từ là tình thương cho con người, cho chúng sanh, cho muôn vật. Bi là lòng thương xót, trắc ẩn cho những sanh linh đau khổ, đang bị trói buộc trong bánh xe lăn của sanh già bệnh chết. Hỷ là lòng vui mừng khi thấy người khác được hạnh phúc, được thành công điều tốt đẹp. Xả là sự cởi mở, buông bỏ những kiến chấp, thành kiến, những giận hờn để chan hòa với mọi chúng sanh.

Từ Bi Hỷ Xả không chỉ là thái độ đối với đời sống. Nó còn là một sức mạnh để chuyển hóa đời sống. Chúng ta đã biết, có lần đức Phật đã dùng lòng từ bi để thuần hóa một con voi say được thả ra để hại Ngài. Chuyện dùng lòng từ bi để hóa giải sự hung dữ, mù quáng, tâm ác như vậy không hề thiếu trong suốt cuộc đời đức Phật. Chúng ta cũng biết các thiền sư Việt Nam ngày xưa sống ở những nơi đấy thú dữ, cọp beo, trăn rắn, các vị đã chuyển hóa thú vật thành ra hiền từ, thuần hậu hơn.

Qủa thật, Từ Bi Hỷ Xả là một sức mạnh của nhân cách cao đẹp, một thứ hương thơm vô hình của đạo đức, một sự kết trái thầm lặng tỏa hương qua quá trình Bát Chánh Đạo của một nhân cách chín muồi. Chúng ta thấy điều này qua một con người hiện đại là đức Đạt Lai Lạt Ma, dầu chỉ thấy qua ảnh chụp: ở Ngài, luôn luôn tỏa ra một niềm hoan hỷ, lạc quan, vui sống không vướng bận, một vẻ hiền từ khiến người cảm mến và thích gần gũi, một sự thoải mái buông xả, dứt bặt mọi ý niệm tranh luận hay ý định thuyết phục... Có lẽ người Tây phương đến với Ngài bằng chính sự hiện diện của Ngài, trước khi đến với những pháp tu Mật tông có vẻ rắc rối và xa lạ đối với họ.

Từ Bi Hỷ Xả không chỉ là một quan niệm mà là sự sống. Chúng ta thấy một nhà Lý từ bi (và thịnh vượng) qua các câu nói, thái độ, việc làm của các vua Lý đối với những người cùng khổ, các tội nhân đang bị giam cầm, và danh tướng Lý Thường Kiệt “chăm lo cho đến các cụ già” như thế nào. Có thể nói, sức mạnh của đời Lý chính là lòng từ bi, và yếu tố khiến cho hậu thế đánh giá triều Lý là một thời đại cực thịnh cũng chính là lòng từ bi đó.

Bước qua nhà Trần, chúng ta không chỉ chú ý đến việc đời Trần đã đánh thắng quân Nguyên-Mông, mà còn là không khí văn hóa thời ấy. Đó là tinh thần lạc quan vui sống (Hỷ) của vua quan và dân chúng đời Trần, tinh thần khoan dung, không cưu mang mối thù hận giữa các cá nhân, do hoàn cảnh gia đình tạo ra là Trần Liễu và Trần Thái Tông, giữa Trần Hưng Đạo con của Trần Liễu và Trần Quang Khải con của Trần Thái Tông. Tâm khoan dung tha thứ đó còn mở rộng ra với kẻ địch đã mấy lần tàn phá thủ đô Thăng Long, bằng việc thả tất cả các tù binh giặc về phương Bắc, thậm chí vua Nhân Tông còn cho đốt hết các thùng tài liệu ghi tên các người có mối liên lạc với giặc hoặc định đầu hàng theo giặc, mà không hề xem qua. Bởi thế, đời Trần không chỉ được ghi vào lịch sử như một thời đại hào hùng nhất, mà còn để lại dấu ấn nhân văn đậm nét mang tính chất Việc Nam: hùng dũng mà khoan thứ, độ lượng; đoàn kết keo sơn mà không cuồng tín, tự cao tự đại để rơi vào chủ nghĩa quốc gia hep hòi (sự thương thuyết với Chiêm Thành để có hai châu Ô, Lý và nền hòa bình Chiêm- Việt càng nói lên điều đó).

Nhìn lại trong kho tàng ca dao, trong tính cách của các nhân vật lich sử mà ai cũng biết như Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt, Trần Thái Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi, Nguyễn  Du… , chúng ta có thể thấy cái tinh thần Từ Bi Hỷ Xả thấm nhuần sâu xa trong đáy lòng dân tộc như thế nào, để có thể nói được rằng Từ Bi Hỷ Xả là một phần trong nhân cách của dân tộc Việt.

Khi nói đến Từ Bi Hỷ Xả trong xã hội hiện nay, có lẽ có người cho rằng đó là phạm trù đạo đức, đâu có liên quan gì đến thời đại siêu kỷ nghệ này. Cứ tạm cho Từ Bi Hỷ Xả chỉ là những tiêu chuẩn đạo đức, không phải là sức mạnh của chính đời sống, thì chúng ta cũng phải thấy rằng ý muốn phục hồi, làm sống lại những giá trị đạo đức ở một nước đứng hàng đầu về tiến bộ khoa học kỹ thuật như nước Mỹ, có ý nghĩa như thế nào trong những năm cuối của thế kỷ 20 này. Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã làm nhiều việc để làm sống lại nền đạo đức từng đưa nước Mỹ đến chỗ thịnh vượng, theo như nguyện vọng của một số trí thức nhìn rõ vấn đề. Ông đã đến Hollywood để nói với giới sản xuất phim ảnh rằng, nước Mỹ cần giảm đi những loại anh hùng bạo lực, để thay thế bằng những người hùng nhân tính, và ông đã soạn một dự luận liên bang về tôn giáo ở học đường. Một nước Mỹ đã lãng quên đi vấn đề đạo đức để chạy theo lợi nhuận kinh tế, ưu thế về quân sự, nay đã nhìn thấy xã hội hậu công nghiệp của họ không thể thiếu nền tảng đạo đức, thế thì chúng ta có thể bỏ qua cái phần cốt lõi trong văn hóa truyền thống là Từ Bi Hỷ Xả trong giai đoạn mới bước vào xã hội công nghiệp hay sao?

Quả thật, một xã hội dầu được tổ chức siêu đẳng bao nhiêu, mà không có tình thương và lòng trắc ẩn, sự hoan hỷ va lòng khoan thứ, thì đó chỉ là một bộ máy vô nhân tính tinh vi và khổng lồ, trong đó con người đánh mất chính bản thân mình và rơi vào cái cảm thức cô độc bất an của người Âu Mỹ hiện đại: sự ích kỷ cá nhân, sự bơ vơ và bất an, sự nghèo đói về tinh thần, sự cô lập, thấy mình không có một tương quan nào với đồng loại và thiên nhiên, sư chạy đua cạnh tranh khốc liệt về tiền bạc, danh vọng và quyền lực bất chấp người khác… kết quả là một xã hội dư thừa vế vật chất mà thiếu thốn chỗ trú thật sự cho con người, một xã hội đặt thành công vật chất lên trên hết đã làm khô kiệt và khủng hoảng con người. Đó là “một cơn ác mộng phòng lạnh”, như lời nhà văn Mỹ Henry Miller đã nói cách đây nửa thế kỷ.

Sự tổ chức cao độ chỉ là hình thái, hình thức tinh vi của một xã hội, nếu thiếu vắng cái nội dung là lòng từ bi thì thật bi thảm biết bao: một số nước tiên tiến có rất nhiều viện dưỡng lão trang bị tối tân, nhưng người gìa không chỉ cần viện dưỡng lão; họ cần sự chăm sóc, tưởng nhớ của thân nhân hơn là những ngôi nhà quá đủ tiện nghi và dư giả cô đơn để chờ cái chết. Cũng thế, tai nạn giao thông về hình thức là sự thiếu hiểu biết luật lệ, nhưng nội dung của nó là sự phóng nhanh vượt ẩu, không tôn trọng kẻ khác, coi thường sinh mạng người khác, tóm lại là thiếu lòng nhân từ.

Trong thời đại ngày nay, chúng ta mới thấy từ bi là quan trọng đến dường nào: chưa bao giờ trái đất sản xuất thực phẩm dư giả đến như vậy, hệ thống phân phối nhanh chóng đến như vậy, nhưng cũng chưa bao giờ con người trực tiếp thấy trên TV hàng triệu người chết đói đến như vậy. Chưa bao giờ thế giới có nhiều thương thuyết gia với đầy đủ phương tiện để tiếp xúc với nhau đến như vậy, nhưng cũng chưa bao giờ chiến tranh, khủng bố cứ bùng nổ, dai dẵng không thể chấm dứt như thế. Và có lẽ cũng chưa bao giờ chúng ta thấy chân lý tình thương của đạo Phật lại sáng tỏ đến thế: hận thù không thể xóa bỏ hận thù, hận thù chỉ chồng chất thêm hận thù, bạo động chỉ làm tăng thêm bạo động, chỉ có tình thương mới làm tan biến vĩnh viễn hận thù.

Khi không có tình thương và lòng trắc ẩn, không có sự vui mừng trước thành công của kẻ khác, không có lòng hỷ xả với nhau, thì thế giới dù có được tổ chức tinh xảo đến đâu, cũng chỉ là một môi trường để con ngươi xâu xé lẫn nhau, xâu xé bằng pháp luật tinh vi, bằng những định luật kinh tế, bằng những phát minh khoa học vượt trước người khác, bằng sự quảng cáo thông tin áp đảo kẻ khác…, tóm lại là bằng mọi phương tiện văn minh. Nhưng một nền văn minh thật sự, theo đạo Phật và quan điểm của minh triết phương Đông, chỉ có từ nơi sâu thẳm của lòng người, từ suối nguồn Từ Bi Hỷ Xả, suối nguồn nâng cấp con người vượt lên thân phận thú vật của mình, để trở nên ngày càng toàn thiện.

Như Heidegger triết gia hiện đại của phương Tây, đã nói: chính trong hiểm nguy hiểm họa, con người mới nhìn thấy sự cứu thoát và giá trị của sự cứu thoát. Thực thế, chính trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 này, trải qua biết bao cuộc chiến tranh và khủng hoảng căn để của xã hội, con người mới bớt huênh hoang và nhận ra nỗi khốn khổ bất hạnh của mình. Nỗi khốn khổ không trừ một ai, kẻ giàu cũng như kẻ nghèo, phát triển hay chưa phát triển, người nhận viện trợ cũng như người viện trợ, da trắng cũng như da màu… và cũng chính từ nỗi khốn khổ đó, con người mới nhận ra đâu là sự cứu thoát của mình, đó là chân lý muôn đời của đạo Phật: Từ Bi Hỷ Xả.

Không nghi ngờ gì, Từ Bi Hỷ Xả là sự lành mạnh của một xã hội. Thiếu cái nội dung là Từ Bi Hỷ Xả thì một xã hội giàu hình thức được tổ chức cao cấp đến đâu cũng lâm vào khủng hoảng. Đến bây giờ, người ta mới thấy tính toán sự tiến bộ của một nước mà chỉ tính bằng GDP (lợi tức bình quân thu hoạch trong năm của một người dân) là một sự thiếu sót căn bản, không chỉ là mức sống mà phải là chất lượng sống, không chỉ là lợi tức mà còn là dân trí, sự an vui và giá trị của cuộc sống, trong đó, cái cốt lõi là Từ Bi Hỷ Xả. Chúng ta thấy, năm 1995 vừa qua được UNESCO chọn làm “năm của lòng khoan dung”, điều đó cho thấy khoan dung (là một phần của tâm xả) vẫn còn là một mục tiêu chưa với tới được của nhân loại.

Từ đó có thể thấy ra, Từ Bi Hỷ Xả không phải là một cái gì đã thuộc về quá khứ cha ông, trái lại nó là một cái đích phát triển của nhân loại. Phước đức thay, từ 2000 năm nay, Từ Bi Hỷ Xả qua sự bồi dưỡng của đạo Phật, đã thấm nhuần vào máu huyết và tâm hồn dân tộc, tạo thành nhân cách dân tộc, đến nỗi mỗi người Việt chúng ta tự thâm sâu ai cũng có thấy có chút ít phần của chúng. Đó là một gia tài vô giá, sống động mà lặng lẽ, mà lịch sử truyền lại cho mỗi chúng ta. Nó không phải là một danh từ, một khẩu hiệu, mà là một thực tại sống động, dầu nhỏ nhoi, trong mỗi chúng ta. Phải chăng, nhờ sự thực hành cụ thể của đạo Phật mà chúng ta mới giải phóng được tiềm năng của nó, để nó không còn là một ý niệm, một lý tưởng giá trị văn hóa, mà là hiện thực thành một sự sống quyết định cuộc đời của từng cá nhân cũng như vận mệnh của dân tộc ?

 

NGUYỄN THẾ ĐĂNG

 

 
 
simple stats
lượt đọc kể từ Mùa Phật Đản 2552 - 2008