Giao Tiếp Với Người
Ni Sư Ayya
Khema

Tìm sự vắng lặng
cho tâm, thay vì giao tiếp với người khác, đem
lại cho ta nhiều ích lợi hơn. Đức Phật đã nhiều
lần nhắc đến chánh ngữ: trong Bát Chánh đạo,
trong năm giới và cả trong Kinh Phúc Đức Tối
Thắng (Mahamangala-The Great Blessing).
Nói lời tử tế,
hòa nhã cũng được nhắc đến trong các kinh Phật
khác. Trong bài Luận về Sự Hòa hợp (Exposition
of Nonconflict), Đức Phật cũng chỉ cho ta thấy
rằng lời nói có thể tạo sự chia rẽ, nếu không
được xử dụng đúng.
Nhiều người lầm
nghĩ rằng vì họ hoạt bát, biết cách ăn nói, thì
họ biết thế nào là chánh ngữ. Thật ra chánh ngữ
là một nghệ thuật cần phải học hỏi. Lời nói tùy
thuộc vào quá trình suy tư và cả các phản ứng
tâm lý. Khi đang ở trong trạng thái giận dữ, ta
khó mà xử dụng được chánh ngữ. Nếu chúng ta muốn
tỏ ra quan trọng - một khía cạnh tâm lý của ngã
tưởng- lời nói của ta sẽ đầy tự mãn. Vì thế ta
cần phải kiểm soát không chỉ ý mà còn cả thọ nữa.
Chỉ có bậc Giác Ngộ hoàn toàn, bậc A-la-hán mới
có thể luôn làm chủ lời nói, luôn xử dụng chánh
ngữ. Nhưng điều đó không cản trở ta thực hành,
và học xử dụng chánh ngữ càng nhiều càng tốt.
Không nên nói lời
tâng bốc, ngọt ngào quá đáng. Những lời nói đó
là tà ngữ, nhưng nhiều người vẫn quen xử dụng
chúng. Họ luôn tán đồng, ủng hộ một cách thái
quá. Nhưng dầu họ có cố tỏ ra tử tế, lời nói họ
vẫn không chân thật.
Một điều thú vị
về ngôn ngữ, cần được nhắc ở đây, là dầu ngôn
ngữ là phương tiện chính yếu ta xử dụng trong
giao tiếp, nó chỉ đóng góp khoảng bảy phần trăm
trong việc giao tế giữa con người với nhau. Dữ
kiện nầy được một phụ nữ phụ trách về các hội
thảo giao tế tiết lộ -chuyện chúng ta cần những
hội thảo như thế cũng cho ta biết rất nhiều về
chính bản thân mình. Công việc của người nầy rất
ăn khách. Có lẽ vì con người không biết cách
giao tế, nói chuyện với nhau - đặc biệt là những
người sống gần bên nhau. Có rất nhiều điều đã
xảy ra ở ngoài phạm vi của bảy phần trăm ngôn
ngữ. Vì chín mươi ba phần trăm còn lại không
thuộc về ngôn ngữ, do đó ta còn cần phải cẩn
trọng hơn về ý và các cảm xúc của mình. Chúng ta
không thể che giấu hay coi chúng như là bí mật
của riêng mình. Chúng ta thường nghĩ rằng mình
muốn nghĩ hay cảm xúc thế nào cũng được, vì
không ai biết được, nếu ta không nói với họ.
Điều đó hoàn toàn không chính xác.
Tư tưởng, tình
cảm chúng ta cũng dễ bị người khác nhận biết nếu
có chú tâm. Người ta thường suy đoán tình cảm ẩn
giấu sau lời nói. Vì thế mà thường đưa đến những
sự hiểu lầm. Có người nói điều gì đó, và nghĩ
rằng mình không có ẩn ý gì, nhưng người nghe thì
cảm nhận tình cảm gì đó ở đằng sau câu nói, nên
hiểu câu nói hoàn toàn khác. Dĩ nhiên là người
nghe có thể trao đổi với người nói để tránh sự
hiểm lầm. Nhưng thường người ta không chất vấn,
mà chỉ giữ sự hiểu lầm, rồi sinh ra hiềm khích,
lạt lẻo tình cảm, ghét bỏ nhau.
Tình cảm sâu kín
của ta cũng có thể được biểu lộ qua cử chỉ. Nếu
để tâm, ta có thể hiểu được nhiều thứ qua thái
độ, nét mặt, giọng nói của người khác. Trái lại
ngôn ngữ và cách diễn tả bằng ngôn ngữ thì hạn
chế hơn nhiều. Chúng ta có thể đọc một tờ báo
bằng bất cứ ngôn ngữ nào, nếu ta biết được
khoảng hơn ngàn từ vựng. Không nhiều lắm. Và
trong ngôn ngữ hằng ngày, ta cũng xử dụng chỉ
từng ấy từ ngữ. Chúng ta không được khéo léo lắm
trong việc xử dụng ngôn ngữ một cách thâm sâu.
Lời nói, tình cảm,
cử chỉ định hình sự liên hệ giữa con người với
nhau. Khi sống chung trong một cộng đồng, ta
không nên chỉ liên hệ với một số ít người, mà
nên liên hệ với tất cả mọi người. Nếu ta chỉ
chọn lựa một vài người mà ta nghĩ dễ liên hệ,
gắn bó và mặc kệ những người khác, thì đó không
phải là sống hòa hợp với cộng đồng, với chúng.
Một cộng đồng phải bao gồm tất cả mọi người, và
mỗi thành viên phải có bổn phận, có quyền được
liên hệ với tất cả mọi người.
Chúng ta phải làm
sao để cuộc sống chung đụng ít sinh ra những
hiểu lầm, để sự chung sống đó mang lại thoải mái
cho nhau? Một trong những đức tính đó đã được
nhắc đến trong Kinh Từ Bi (Metta Sutta) đó là 'dễ
cho người ta trao đổi, nói chuyện'. Điều đó có
nghĩa là phải sẵn sàng từ bỏ quan điểm của mình,
để chia sẻ quan điểm của người khác. Biết sẵn
sàng nhận lỗi, biết nói lời xin lỗi một cách
chân thành. Ta không đáp trả lại khi ai đó nói
lời xúc chạm đến ta, mà thật sự lắng nghe điều
họ nói. Vì điều nói và điều nghe nhiều khi không
giống nhau. Nghe và lắng nghe cũng là hai vấn đề
khác nhau. Lắng nghe giúp ta biết rõ những gì
đang xảy ra. Tự phác họa ra trong đầu những ý
kiến, quan điểm riêng của mình là lỗi lầm nghiêm
trọng nhất mà ta thường mắc phải, khi ta nghĩ
rằng ta đang lắng nghe, và nhất là khi ta tự cho
mình là kẻ biết lắng nghe. Biết lắng nghe có
nghĩa là hoàn toàn không có ngã chấp, biết cảm
thông với tất cả những gì ta lắng nghe. Đó là
một nghệ thuật, một khả năng cũng giống như nói
vậy. Nó đòi hỏi ta phải hoàn toàn chú tâm vào
người nói. Chỉ chăm chú lắng nghe những gì đã
được nói ra, mà không thêm thắt gì vào đó, không
suy nghĩ thêm về điều gì, đó là một biểu hiện
của lòng nhiệt tâm. Đó cũng là lòng từ bi. Nếu
lời ta nói không phát xuất từ tâm từ, ta rất dễ
bị hiểu lầm.
Trong bài Luận về
Sự Hòa Hợp như đã nói ở trên, Đức Phật cũng
khuyên chúng ta không được đề cao thái quá, cũng
không được hạ xuống tận cùng; cả hai đều là lời
nói không chân thật. Thí dụ, nếu chỉ có một ngàn
rưởi người đến dự một buổi lễ nào đó, nhưng ta
lại nói là có mười lăm ngàn, để tăng thêm sự
quan trọng của mình, là ta đã không thành thật.
Nói phóng đại như vậy có vẻ quá đáng, nhưng thực
tế thì con người thường nói đủ những chuyện trên
trời dưới đất. Thí dụ, tôi có thể bóp méo sự
thật bằng cách nói: "Không bao giờ bạn chào hỏi
tôi trước". Cũng có thể bạn không hay chào hỏi
tôi, nhưng nói 'không bao giờ' thì có lẽ không
đúng sự thực. Vì thế ta cần suy nghĩ trước khi
nói. Khi chúng ta nói không suy nghĩ, ta ít khi
đúng, mà sai thì hẳn nhiều hơn. Ta không nên để
điều đó xảy ra. Ta không thiếu thì giờ để suy
nghĩ, cân nhắc.
Cũng có khi ta
cần nhắc nhở người khác về việc họ nên làm hay
không nên làm. Thí dụ như: 'Tôi không thể ngủ
khi cửa sổ để mở', hay 'Bạn đừng đạp lên chân
tôi'. Nói những điều đó không có gì là sai,
nhưng ta cần bình tĩnh, không nên nói theo phản
ứng. Trước hết ta cần phát khởi tâm hỷ xả. Khi
đã bình tĩnh trở lại, ta nên nhớ đến những điểm
tốt của người mà ta định khiển trách, khi chúng
ta đã cảm thấy tự tại, ta có thể nói điều mình
nghĩ. Cần phải đánh thức từ tâm, vì nếu trong
lời nói của ta không phản ảnh được từ tâm, thì
có nghĩa là ta chưa biết giao tế, đối thoại với
người. Chúng ta sẽ khiến cho người nghe hiểu lầm,
chống đối ta hay ít nhất cũng lúng túng, khó xử.
Khi lời nói của ta gây bất mãn cho người nghe,
là ta đã làm vết thương đau đến hai lần.
Có một công thức
rất hữu dụng trong bài Luận về Sự Hòa Hợp: 'Nếu
bạn nói điều gì có thể gây đau khổ, mà không
đúng sự thật, thì không nên nói. Nếu bạn muốn
nói điều gì hữu ích, mà không đúng sự thật, thì
cũng không nên nói. Nếu bạn muốn nói điều gì đó
có thể gây đau khổ, nhưng đúng với sự thật, thì
cũng đừng nên nói. Nếu bạn nói điều gì đem lại
lợi ích, và đúng với sự thật, thì hãy đợi đúng
lúc mới nói'. Đúng lúc có thể là mười phút, mười
ngày hay mười tháng sau đó.
Có những lúc bạn
cảm thấy hay mơ hồ cảm thấy người khác đang thay
đổi, chuyển hóa tốt hơn. Thì có lẽ không cần nên
nói điều gì cả. Ai cũng có lỗi lầm, không thể
nói hết những điều ấy - có lẽ ta sẽ chẳng bao
giờ hết chuyện. Có lúc ta cũng cần nói lên điều
nầy, điều nọ, nhưng thường thì cũng không cần
phải nói gì cả, vì mọi thứ đều sẽ phải đổi thay.
Lời nói chân thật, lợi ích cho người không cần
phải là những lời tán thán, khen ngợi họ, nhưng
tất cả đều phải là những lời chứa đựng từ bi. Có
lẽ thời điểm tốt nhất để khuyên nhủ, dạy dỗ là
lúc chúng ta hoàn toàn bình tĩnh, người kia cũng
không ở trong trạng thái bất ổn, và họ sẳn sàng
để nghe ta.
Nếu ta đang cơn
nóng giận, thì không phải lúc rồi. Đó là sự quán
sát cẩn thận và lời nói có chánh niệm. Nếu không
thực tập những khả năng nầy, thì chúng ta sẽ tạo
ra nhiều lầm lỗi trong khi giao tiếp với mọi
người. Chúng ta không thể sống bừa, sống đại, mà
phải sống một cách chánh niệm, phải giữ thân,
khẩu và ý suốt ngày. Nhưng đôi khi chúng ta
không thể 'lên lịch' mỗi khi nói; lời nói của ta
có nội dung và thời điểm của riêng nó. Quan
trọng là phải nhớ tà ngữ là gì, và chúng ta đã
lãng phí biết bao thời gian để bàn chuyện nầy,
chuyện nọ. Nếu để ý, ta sẽ thấy rằng, ngoại trừ
lúc ngủ, và những lúc chú tâm, chánh niệm, thời
gian còn lại, mười lăm, mười sáu tiếng mỗi ngày
là để trao đổi, trò chuyện. Vậy tại sao ta không
khéo léo hơn khi nói năng?
Nghệ thuật giao
tiếp không phải dễ học như ta tưởng. Cư xử tế
nhị chỉ là một phần của nó. Ngay khi chúng ta
muốn khen ngợi, tán thán ai đó, ta cũng cần phải
xét xem động lực nào thúc đẩy ta làm như thế. Ta
thật sự muốn khen ngợi người khác hay đang đưa
ta lên? Ta cần phải biết làm thế nào là khéo léo
nhất. Nếu chúng ta thật lòng muốn khen ngợi
người khác thì không sao. Nhưng nếu thật sự là
ta muốn đề cao mình, thì ta nên chừa bỏ tánh đó,
nên xét lại động lực chính của các hành động của
ta. Nếu ta không thực hành lời nói có chánh niệm,
ta dễ buông ra lời nói thiếu suy nghĩ, theo bản
năng, nhất là khi ta đang căng thẳng, không được
bình tĩnh. Vì thế, không thể coi thường lời nói.
Mỗi tối khi lên
giường, thay vì suy nghĩ về những khó khăn hay
sung sướng vật chất, hãy nghĩ về những cái thiện,
cái ác ta đã tạo tác trong ngày. Lời nói của ta
có đem lại lợi ích gì không? Hay cả ngày ta bị
năm uẩn làm chủ? Tham sân, si, mạn nghi, trạo cữ,
hôn trầm có dấy khởi không? Chúng ta đã làm gì
để chúng không thể tác động đến ta? Làm thế nào
để ta có thể mang từ, bi, hỷ xả đến cho người
khác? Mỗi tối ta nên làm một bảng liệt kê nhu
thế. Nếu trong ngày, ta đã nói điều gì khiến ta
giờ phải hối tiếc, đó là vì ta thiếu chủ tâm,
chánh niệm. Làm vậy không phải để tự trách mình,
mà chỉ để nhận biết được những thiếu sót của
mình.
"Nhận biết, không
buộc tội, và thay đổi" - với công thức có vẻ sáo
mòn, cũ kỷ nhưng xác thực nầy, ta soi rọi tâm,
và chuyển hóa tâm. Vào buổi tối, sau một ngày
đầy hoạt động, ta có thể thấy đôi khi lời nói
của ta không chân thực, không ích lợi cho ai. Ta
có thể chấp nhận điều đó với thái độ xả bỏ,
nhưng quyết tâm phải sửa đổi để ngày mai làm tốt
hơn.
Không bao giờ
được quên xét lại động lực hành động của mình.
Người làm thiện không phải có thể thực hiện điều
thiện ở khắp mọi nơi. Mà trước hết tánh thiện
phải xuất phát từ tim ta. Rồi tâm từ, tâm thánh
thiện mới có thể xuất phát từ đó. Vì nếu trong
ta không có những điều tốt ấy, thì làm sao ta
ban phát cho người khác. Nếu tim ta tràn đầy
tình thương trong sạch, điều đó sẽ phản ảnh ra
ngoài, và lời nói không còn giữ vai trò quan
trọng nữa.
Lời nói không phải đong đo bằng số lượng, mà là
tình cảm ở đằng sau đó. Nếu không luôn xem
xét lại động lực của lời nói, ta thường dễ mắc
lỗi. Rồi chúng sẽ ám ảnh tâm trí ta, khiến việc
hành thiền của ta bị ảnh hưởng. Vậy thì ai là
nạn nhân? Chính chúng ta là kẻ lãnh hậu quả của
lời nói sai của mình, chứ không phải ai khác.
Lời nói quan
trọng đến nỗi, khi La Hầu La chỉ mới bảy tuổi,
Đức Phật đã giảng cho La Hầu La nghe về lời nói.
Đó là lúc Đức Phật vừa trở lại nhà sau khi chứng
đắc. Và cũng là lần đầu tiên Ngài gặp lại con
trai nhỏ của mình.
Đức Phật
đã giảng rất kỹ với con về hậu quả của việc nói
dối. Đức Phật nhấn mạnh rằng tà ngữ sẽ khiến ta
mất tất cả mọi thành quả tâm linh.
Sở dĩ Đức Phật
phải thuyết giảng nhiều về lời nói, vì chúng
sanh thường mắc phải lỗi lầm trong lời nói. Lời
nói của họ thường thiếu sự thân mật, ấm áp,
không phải vì những điều họ nói, mà chính là vì
tình cảm trong lòng họ. Đức Phật dạy ta cách đối
trị là hãy khởi tâm yêu thương đồng loại không
có điều kiện, một tình thương không phải chỉ
dành cho người dễ thương. Chỉ có bậc A-la-hán,
kẻ đã hoàn toàn Giác Ngộ - là người có thể hoàn
toàn dễ thương. Ngoài ra, ai cũng có tánh xấu
nào đó. Không ích lợi gì để chỉ nghĩ đến những
tánh xấu của tha nhân; tánh xấu cần được để ý
đến là tánh xấu của chính bản thân mình. Mọi
tánh xấu đều giống nhau, cái khác là số lượng.
Tà ngữ không chỉ
là lời chưởi mắng; mà có thể là lời không tử tế,
lời châm chích, lời tự cao, tự đại. Tất cả đều
là tà ngữ. Bằng cách luôn tự xét mình, ta có thể
diệt bỏ chúng, để thanh tịnh hóa tâm.
Chánh ngữ
có nghĩa là không nói dối, không nói sau lưng
người, không nói lời ác hay chưởi rủa người,
không thóc mách, không nói chuyện vô ích, không
xúi người nầy chống báng người khác. Trừ khi ta
có năng khiếu đặc biệt về ngôn ngữ, còn lại ta
cần phải trau dồi lời nói sao cho có hiệu quả,
mà không xảy ra những điều bất như ý, nếu không,
chứng tỏ là ta chưa hiểu được những lời dạy của
Đức Phật về lời nói. Những điều dạy nầy của Đức
Phật rất quan trọng cho tất cả chúng ta.
Ni Sư Ayya Khema
(theo
Pháp Vân Canada)


|