Màu Sắc Pháp Phục
Thích Nguyên Hiệp

Chiếc y của người
xuất gia Phật giáo biểu trưng cho sự thanh bần,
giản đơn, và quan trong hợn cả là nó nối kết
người mặc với vị thầy bổn sư của mình - Đức Phật;
và chiếc y cũng giúp người khoác nó luôn nhớ đến
bổn phận và trách nhiệm của
mình.

Y phục được xem
là một trong bốn vật dụng thiết yếu đối với
người xuất gia Phật giáo. Là vật dụng thiết yếu
vì y phục giúp che kín thân thể, giúp cơ thể
tránh khỏi sự xâm hại của “nóng, lạnh và ruồi
muỗi”, chứ không phải vì một mục đích nào khác.
Nói cách khác, người xuất gia (cũng như mọi
người) không thể không dùng đến y áo chứ không
dùng y áo làm thước đo cho một giá trị nào đó.
Điều này hẳn nhiên không hoàn toàn đúng về sau,
nhưng ít nhất nó được phản ánh trong giai đoạn
đầu tiên.
Tuy nhiên, vì y
áo được xem là một trong bốn vật dụng thiết yếu
nên việc hình thành những giới luật liên quan là
điều đã xảy ra. Nhưng dù Luật Tạng có những quy
định về việc khâu, nhuộm và sử dụng y phục thì
màu sắc cụ thể của y như thế nào lại không được
nhắc đến.
Chúng ta không rõ
vào thời ấy Đức Phật đắp y màu gì. Kinh luật
không đề cập đến màu y cụ thể của Đức Phật cũng
như của Tăng chúng. Tuy nhiên, trong Kinh Đại
Bát Niết Bàn chúng ta gặp một đoạn nói về việc
cư sĩ Pukkusa, dòng tộc Mallā, đã cúng dường Đức
Phật và Tôn giả Ananda hai chiếc y màu “kim sắc,
vàng chói”. Điều này dường như rằng y phục của
Đức Phật thường có màu vàng, hay một màu tương
tự như vậy, mà nó được xem là tương ứng với sắc
da của Ngài (?).
Có quan điểm cho
rằng y phục của Tăng sĩ thời ấy có màu vàng nghệ,
hoặc màu nâu vàng (hay vàng cam), là những màu
sắc y áo mà du Tăng của các giáo phái khác nhau
thường sử dụng, bởi vì những sắc màu này phù hợp
với các du sĩ rày đây mai đó, đầu đội trời chân
đạp đất và đẫm mình với gió bụi. Và thêm một lý
do nữa khiến người ta suy luận như vậy là do sự
phổ biến của truyền thống dùng cây mít làm thuốc
nhuộm, mà y áo được nhuộm bằng chất liệu này
thường cho ra màu vàng. Truyền thống nhuộm y
theo cách này hiện vẫn được một số Tăng sĩ theo
truyền thống Theravada duy trì.
Bên cạnh đó, giả
thiết y có màu vàng còn đến từ truyền thống
nhuộm y bằng các loại rễ, lá hay vỏ cây, nhưng
có bổ sung thêm củ cây nghệ. Tuy nhiên, chúng ta
không tìm thấy bằng chứng cho những điều này
trong các kinh luật.

Trong
Samantapasadika, một luận giải về Luật Tạng do
Ngài Phật Âm (Buddhagosha) sưu tập và dịch từ
tiếng Sinhala sang Pali vào thế kỷ thứ V, chúng
ta bắt gặp một đoạn thế này: “Đức Phật đưa
cánh tay phải ra khỏi chiếc y màu đỏ, nói với
những người muốn xuất gia với Phạm âm ‘hãy đến
đây, ông sẽ sống đời xuất gia để chấm dứt khổ
đau.’ Vừa sau khi kết thúc những lời này, thân
tướng cư sĩ biến mất, thân tướng Tăng xuất hiện.
Một lễ thụ giới hoàn tất. Những người này đầu
sạch tóc, khoác cà-sa (kasava), mặc một y, khoác
một y (bên ngoài) và đắp một y trên vai.” Đó
là một đoạn chúng ta thấy có nhắc đến màu y của
Đức Phật: màu đỏ.
Tuy nhiên, căn cứ
vào những trình bày trong Luật Tạng liên quan
đến y phục của Tăng, chúng ta thấy rằng người
xuất gia thời ấy không sử dụng thuần nhất một
màu sắc, bởi vì y áo tùy thuộc vào loại cây làm
thuốc nhuộm mà mỗi vị Tăng sử dụng. Nhưng có một
điều chúng ta có thể biết là màu sắc y áo của
Tăng sĩ thời ấy thường có màu tối, sẫm, và là
một sắc màu không đẹp. Điều này có thể biết được
qua những quy định về các loại thuốc nhuộm mà
Đức Phật cho phép sử dụng. Và nó cũng được thể
hiện ngay nơi việc dùng chữ kasava (S. kasaya)
để chỉ cho y áo; kasava có nghĩa là sự úa màu,
bạc màu, hay như thường được gọi là “hoại sắc”.
Tứ Phần Luật (Tập
5) có nêu ra một vài cách thức nhuộm y, mà nếu
nhuộm theo cách thức này thì ý hẳn phải có màu
sẫm và xấu, “Nếu y bị bay màu thì nên nhuộm lại,
hoặc nhúng bùn, hay dùng vỏ cây đà-bà, vỏ cây
bà-trà, kiền-đà-la, tất bát, a-ma-lặc, hoặc dùng
gốc cây, hay cỏ thiến để nhuộm.” (HT. Đổng Minh
dịch). Trong Đại Phẩm (Nam truyền), chúng ta
thấy có sáu loại thuốc nhuộm được Đức Phật cho
phép sử dụng nhuộm y: “Này các Tỳ-kheo, ta
cho phép được sử dụng sáu loại thuốc nhuộm. Đó
là thuốc nhuộm làm từ rễ cây, thuốc nhuộm làm từ
thân cây, thuốc nhuộm làm từ vỏ cây, thuốc nhuộm
làm từ lá cây, thuốc nhuộm làm từ bông hoa,
thuốc nhuộm làm từ trái cây”. Nhìn chung, dù
y được nhuộm bằng loại thuốc nhuộm làm từ chất
liệu gì trong sáu loại này thì màu sắc của y
thường không phải màu sáng.

Y cần phải nhuộm
cho sẫm màu trước hết để phân biệt với y áo mà
người tại gia thuở ấy thường mặc là màu trắng,
và thứ nữa nó cần phải làm cho “hoại sắc” để
không gây nên sự yêu thích nơi người mặc và
người nhìn, tránh sự tham chấp có thể xảy ra! Và
việc Tăng sĩ mặc y sáng màu cũng là điều bị xã
hội thời ấy phê phán. Trong Đại Phẩm có nhắc đến
trường hợp các Tỳ-kheo mặc y “màu ngà voi” và bị
dân chúng phê bình.
Đó là những thông
tin về màu sắc của y mà ta tạm có. Còn về kiểu
thức của y, dựa vào những trình bày trong Luật
Tạng chúng ta thấy rằng, y của người xuất gia
thời ấy thường là một miếng vải hình chữ nhật (hoặc
gần như vậy), và không được để nguyên mà phải
được ghép thành từ nhiều mảnh rời. Mặc y để
nguyên miếng là điều không phù hợp với các Tăng
sĩ của nhiều giáo phái chứ không riêng gì Tăng
sĩ Phật giáo.
Vào thời điểm ban
đầu, việc sử dụng y được khâu ghép lại từ nhiều
mẩu vải chưa được Đức Phật quy định; Tăng chúng
mặc bất cứ loại y áo nào mà họ kiếm được, hoặc
nguyên tấm, hoặc do nhiều mảnh ghép thành. Nhưng
về sau khi dân chúng phê bình việc các Tỳ-kheo
mặc y nguyên tấm, Đức Phật nhân đó mới dạy rằng
nên mặc y cắt, tức y do nhiều mảnh vải ghép
thành. Và ý tưởng may y từ những mảnh vải vuông
cân đối đã xảy ra sau đó khi Đức Phật cùng với
tôn giả Ananda từ Dakkhiṇāgiri
quay trở lại Rājagaha và nhìn thấy những ô ruộng
vuông vức bên đường (xem thêm Đại Phẩm, hoặc Tứ
Phần Luật quyển V). Điều về sau hình thành một
tên gọi khác cho y là “phước điền y”. Và với tên
gọi này, y phục của người xuất gia đã có thêm
“giá trị” mới: nơi người cư sĩ có thể gieo trồng
những hạt giống phước! (tức người khoác y này
xứng đáng làm nơi cho người cư sĩ cúng dường để
gieo trồng phước lành).

Như vậy, y của
các Tỳ-kheo thường có hình chữ nhật với những
mảnh vải ghép lại. Việc mặc y do nhiều mảnh vải
ghép lại như vậy, một mặt do vì các vị du sĩ
thời ấy thường nhặt những mảnh vải ở các nghĩa
địa và đống rác rồi khâu kết thành (để rồi nó
trở thành một quy ước), và mặt khác để nó “phù
hợp với sa-môn, và để những kẻ đối nghịch nhìn
thấy không khởi tâm mong muốn.” (Đại Phẩm).
Theo truyền thống,
một vị Tăng khi khoác y thường để trần một vai,
cách thức biểu lộ lòng tôn kính, đặc biệt khi
thưa chuyện hay học hỏi với một vị trưởng lão.
Điều này cũng là một quy ước của xã hội thời ấy.
Việc mặc y để trần vai phải, thực ra, không phải
là truyền thống riêng của Phật giáo, bởi vì khi
Uruvela Kassapa (Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) đến gặp
Đức Phật để xin gia nhập Tăng đoàn ông cũng đắp
y để trần vai phải. Người Ấn Độ cổ đại có truyền
thống mặc áo để trần vai phải khi gặp những bậc
trưởng lão, những đạo sư hay đến các thánh địa.
Khi Phật giáo
truyền vào Trung Quốc, dưới sự tác động của một
nền văn hoá đặc thù ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng
Khổng giáo, hình thức đắp y để trần một vai đã
không còn phù hợp đối với các Tăng sĩ khi xuất
hiện ở quốc gia này. Ngược lại với văn hoá Ấn,
người đắp y để trần vai không được xem biểu lộ
sự lịch thiệp ở Trung Quốc. Người Trung Quốc xem
một người ăn bận kín thân là biểu hiện của sự
tôn trọng. Và do đó y phục của Tăng đã có sự
thay đổi. Bên cạnh đó, việc thay đổi kiểu thức y
phục còn chịu sự ảnh hưởng cách ăn mặc của các
tu sĩ Lão giáo, và cả điều kiện khí hậu. Việc sử
dụng áo hậu dài có tay rộng là do ảnh hưởng kiểu
áo của Tăng sĩ Lão giáo. Hẳn nhiên các Tăng sĩ
Phật giáo đã có sửa đổi, khi khoác thêm bên
ngoài chiếc y có những ô (điều), một cách vừa
sáng tạo để phù hợp với ngữ cảnh văn hoá mới,
nhưng cũng giữ lại nét truyền thống riêng có của
mình.
Nhưng khi y áo có
sự thay đổi để phù hợp với ngữ cảnh văn hoá mới,
thì cách sử dụng ba y của Tăng sĩ theo Phật giáo
Đại thừa đã không còn giống với truyền thống ban
đầu; và những nghi thức liên quan đến y cũng đã
được quy định: ba y được sử dụng cho những
trường hợp cụ thể, và chúng còn liên quan đến
vấn đề hạ lạp và vị trí của người sử dụng.

Khi đã trở thành
một vật không chỉ dùng “che chở nóng lạnh” như
thời kỳ đầu, y ít nhiều trở thành vật mang tính
biểu tượng và được gắn thêm những giá trị khác.
Và khi y đã có những liên hệ với lễ nghi, được
quy định mặc trong những trường hợp nào thì việc
hình thành nên các loại áo nhật bình là điều tất
yếu phải có. Nhưng việc sáng tạo thêm những loại
áo nhật bình khác không chỉ vì “tam y” đã ít
nhiều gắn liền với lễ nghi, mà còn vì các Tăng
sĩ không còn thực hành truyền thống khất thực
như ở Ấn Độ mà phải lao động độ nhật. Việc khoác
y để lao động chân tay là điều không mấy phù hợp.
Và ở đây màu sắc của từng loại y áo lại có sự
khác nhau, để cho nó tương hợp với từng hoàn
cảnh.
Các nước theo
Phật giáo Đại thừa phần lớn tiếp nhận Phật giáo
qua cửa ngõ Trung Quốc, và rồi chừng mực nào đó
đã chịu ảnh hưởng một vài nét đặc trưng của Phật
giáo nước này. Khi một vị Tăng Trung Hoa đến một
nước khác truyền đạo, người đệ tử xuất gia của
vị này không thể không dùng kiểu pháp phục của
Thầy mình (ít nhất vào lúc đầu). Chính lý do này
mà Tăng sĩ các nước theo Phật giáo Đại thừa có
pháp phục phần nào giống với pháp phục Tăng sĩ
Trung Quốc, dễ thấy nhất là cách choàng y ra
ngoài áo hậu. Nếu nhìn pháp phục của Tăng sĩ Hàn
Quốc, chúng ta thấy nó không khác mấy pháp phục
của Tăng sĩ Trung Quốc. Dù về sau người Hàn đã
có sự thay đổi, chẳng hạn như họ không giữ
nguyên kiểu hậu dài của Tăng sĩ Trung Quốc, và y
cũng có một vài “điều chỉnh”, nhưng trên căn bản
là thừa kế truyền thống pháp phục Trung Quốc.
Nhật Bản đầu tiên
tiếp nhận Phật giáo từ Hàn Quốc, và sau đó từ
Trung Quốc, pháp phục do đó ít nhiều chịu ảnh
hưởng pháp phục Tăng sĩ Trung Quốc. Tuy nhiên,
Tăng sĩ Nhật thường rất có tính sáng tạo nên
không dễ tiếp nhận nguyên vẹn kiểu pháp phục đó.
Họ tạo ra nhiều loại y áo khác nhau, cả y áo
dùng trong nghi lễ và cả y phục thường nhật, con
số tên gọi vượt lên con số chục.
Về màu sắc, y áo
của Tăng sĩ theo Phật giáo Đại thừa không có sự
đồng nhất. Ngay ở Trung Quốc, không phải tất cả
Tăng sĩ đều có chung màu sắc y phục: các loại
màu thường được sử dụng là vàng, nâu vàng, nâu,
xám, xanh, đen và xám đen. Vào đời nhà Đường,
còn xuất hiện thêm một loại y tía, là y nhà vua
ban cho những vị cao Tăng.

Y áo Tăng sĩ Hàn
Quốc thường có các màu: xám, nâu vàng, hoặc xanh
(Tăng sĩ Hàn Quốc thường khoác y màu nâu vàng,
hậu và y phục thường nhật có màu xám hoặc lam).
Tăng sĩ Nhật thì thường có y màu vàng, xám hoặc
đen, và cũng có thêm y tía, một loại y có nguồn
gốc từ Trung Quốc. Nhưng ở Nhật màu sắc y phục
còn liên quan đến vị trí và cấp bậc của người
mang nó. Ví dụ những người tập sự (như các chú
tiểu ở Việt Nam) thường chỉ mặc y phục màu đen,
và họ chỉ được mang y vàng sau khi đã thọ giới.
Ở Nhật màu sắc pháp phục còn tùy thuộc vào vị
trí của từng ngôi chùa. Ví dụ, chỉ những chức
sắc tại các ngôi chùa lớn mới được khoác y màu
tía. Màu sắc pháp phục ở Nhật cũng liên quan đến
vấn đề bộ phái; và những tranh luận về màu sắc
pháp phục đã từng xảy ra. Vào thế kỷ 13, người
sáng lập Thiền Tào Động, Đạo Nguyên (1200 –
1253), cho rằng màu hoàng thổ là màu phù hợp
nhất đối với y áo, tuy nhiên các màu khác như
xanh, vàng, đỏ, đen, tía và màu kết hợp tất cả
những màu này, cũng được phép sử dụng.
Chúng ta thường
nghe nói chư Tăng Nam tông khoác y theo truyền
thống thời Đức Phật. Có thể điều đó đúng qua
kiểu đắp y để trần một vai, nhưng vì màu sắc do
không có sự đồng nhất ngay từ buổi đầu nên y
phục Tăng sĩ ở các nước Phật giáo Theravada
không hoàn toàn có màu giống nhau. Ở Srilanka,
màu y phổ biến nhất là nâu vàng (hoặc màu hạt dẻ).
Điều này có thể rằng vì ở Srilanka trong quá khứ
có nhiều loại cây cho màu sắc này; và màu này
vẫn còn thịnh hành ngày hôm nay. Trong khi đó
màu y của các sư Miến Điện thường có màu nâu đỏ;
khác với với Thái Lan phần lớn y áo có màu vàng
nghệ.

Và ở một vài nước
Phật giáo Theravada, các Tăng sĩ trong cùng một
xứ đôi khi vẫn không có một màu y áo đồng nhất.
Dù không có những quy định được đặt ra, nhưng
các Tăng sĩ sống trong rừng thường mặc y màu nâu
vàng, trong khi các Tăng sĩ ở thành thị thường
mặc y màu vàng nghệ. Điều này thường bắt gặp ở
Thái Lan.
Như vậy chúng ta
thấy, dù Nam hay Bắc tông, kiểu thức và màu sắc
của y không có một sự đồng nhất hoàn toàn. Và
chính sự không đồng nhất này, Phật giáo mỗi nước
đã tạo nên một nét riêng của mình qua pháp phục.
Và cũng dựa vào nét riêng này, chúng ta có thể
nhận ra một vị Tăng hay Ni đến từ một đất nước
nào đó qua kiểu thức và màu sắc y mà vị này mặc.
Với Phật giáo
Việt Nam, cũng như Phật giáo Nhật và Hàn Quốc, y
hậu của Tăng sĩ ít nhiều ảnh hưởng kiểu y áo của
Tăng sĩ Trung Quốc. Tuy nhiên về màu sắc, Tăng
sĩ Việt Nam hầu như đều sử dụng màu vàng cho y
hậu, có số ít sử dụng y đỏ (thường là các bậc
trưởng lão). Và như vậy về cơ bản chúng ta có sự
đồng nhất, tuy nhiên do mức độ đậm nhạt của màu
sắc y hậu nên ta chỉ có một sự đồng nhất tương
đối. Bên cạnh y hậu, Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam
còn có chiếc áo nhật bình (hoặc tràng xiên) của
riêng mình. Chiếc áo nhật bình màu nâu là một
nét khá đặc trưng của tu sĩ Phật giáo Việt Nam
về y phục, tạo cho người tu sĩ Việt Nam có một
nét “riêng” nào đó. Và với chiếc áo nhật bình
nâu (sồng) này, Tăng sĩ Việt Nam đã tạo nên được
một truyền thống riêng có trong pháp phục của
mình!

Phật giáo đã trải
qua hơn 2500 năm, có mặt ở nhiều quốc gia và tồn
tại dưới nhiều nền văn hoá dị biệt, do đó Phật
giáo tại mỗi xứ tất yếu có những đặc trưng riêng,
và y áo là một khía cạnh. Nhưng dù người tu sĩ
khoác lên mình chiếc y màu sắc và kiểu thức gì,
thì y (kasava) như ý nghĩa vốn có của nó vẫn
không thay đổi. Chiếc y của người xuất gia Phật
giáo biểu trưng cho sự thanh bần, giản đơn, và
quan trong hợn cả là nó nối kết người mặc với vị
thầy bổn sư của mình - Đức Phật; và chiếc y cũng
giúp người khoác nó luôn nhớ đến bổn phận và
trách nhiệm của mình.
Sự đồng
nhất hay dị biệt trong kiểu cách và sắc màu y áo
do đó không phải là vấn đề cốt yếu. Điều cốt yếu
là phải vượt thoát khỏi những dị biệt về sắc
tướng áo y - điều ít nhiều liên quan đến vấn đề
bộ phái - để thấy rằng chúng ta dù không cùng
“áo vuông” thì vẫn chung “đầu tròn”; và sứ mệnh
cũng như lý tưởng của người đệ tử Phật, dù đang
khoác lớp áo y gì, vẫn không hề khác nhau.
Thích Nguyên Hiệp
(theo
Hoa Linh Thoại)


|