BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM TRONG LÒNG MẸ TÔI
Thiện Long – Hàn Long Ẩn dịch

Mẹ là người phụ nữ nông thôn thuộc xã
hội cũ. Mẹ không biết chữ, không ăn chay, nhưng
trong lòng mẹ luôn hiện hữu hình bóng của đức
Đại từ Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.
Hồi tôi còn nhỏ, lúc đó làng tôi có rất
nhiều người đến xin ăn, mẹ tôi sắm sửa một ít
thức ăn đem đến tận tay cho họ, tuy rằng không
nhiều nhưng có thể cứu đói tạm thời. Thời gian
trôi qua như vậy, nhà tôi trở thành nơi dừng
chân của những kẻ hành khất. Tôi còn nhớ, mùa
đông năm ấy tuyết rơi trắng cả bầu trời, từng
cơn gió lạnh thổi về buốt giá, một người phụ nữ
dẫn con đi qua, người con vừa đói vừa lạnh,
ngoài kia những bông tuyết vẫn rơi đều trên lá,
cảnh vật như vô tình. Đến làng tôi, người phụ nữ
kiệt sức ngồi tựa vào gốc cây bất động. Mẹ tôi
đang ở nhà, bỗng nghe tiếng trẻ thơ từ gốc cây
vọng lại, liền lật đật chạy đến chỗ có hai mẹ
con và đưa họ về nhà. Một tay mẹ đốt cỏ sưởi ấm
cho họ, một tay pha thuốc cho họ uống, mẹ còn
tìm những bộ áo quần khô ấm cho họ mặc. Lúc đó
có người hỏi mẹ tôi: “Bà làm như vậy là vì mục
đích gì?” Mẹ trả lời ngay: “Không mục đích gì
cả, tôi chỉ làm theo lương tâm mình mách bảo, có
Bồ Tát Quán Thế Âm chứng giám là được”.
Sau năm 1958, những kẻ ăn xin đã bớt đi
rất nhiều, nhưng thay vào đó là những người thợ
sửa nồi, sửa giày từng đoàn kéo đến làng tôi.
Mỗi lần đến như vậy, họ đều mở sạp hàng ngay
trước mặt nhà tôi. Có khi đến bữa cơm không có
chỗ ăn cơm, họ liền vào nhà tôi ăn. Mẹ tôi tiếp
khách như thế nào thì đối đãi với họ như thế ấy.
Khi đó tôi còn nhỏ, chưa hiểu mô tê gì ráo,
nhưng vì những việc như vậy mà tôi hay thầm
trách mẹ tôi. Mẹ biết và nói với tôi: “Con à,
chúng ta mỗi người có mỗi hoàn cảnh khác nhau,
họ đều có nỗi khổ tâm riêng, nhất là những người
phải xa nhà rày đây mai đó. Anh con cũng như họ,
tha phương cầu thực, người khác giúp đỡ anh con,
bây giờ mẹ giúp đỡ họ thì cũng chính như giúp đỡ
gia đình mình vậy”.
Mọi người trong làng đều nói mẹ tôi có
tấm lòng Bồ Tát. Những lời nói đó thật không
ngoa chút nào. Mẹ tôi đối với lân lí xóm giềng,
bất kể ai gặp khó khăn đều hết lòng giúp đỡ.
Ở thập niên 1960, kinh tế trong làng
gặp lúc túng quẫn, mọi người đói rách lầm than,
mà nhà tôi được cái có mấy anh trai làm việc ở
xa thường hay gửi tiền về nhà, nên kinh tế có
phần đỡ hơn người khác. Tuy vậy, mẹ tôi không
dám ăn, không dám xài, đem tiền cho người ta
mượn hết, đến lúc nhà cần tiền để xài thì trong
tay không còn một đồng nào. Nhưng mẹ tôi thà tự
xoay xở chứ không bao giờ đến nhà người ta đòi
nợ, trong lòng luôn nghĩ mọi người đang gặp khó
khăn hơn mình.
Ngoài ra, mẹ còn dùng cây cỏ thuốc để
chữa bệnh cho mọi người. Cứ đến mùa hè, bà con
lối xóm đau đầu nghẹt mũi đều đến nhà tôi xin
thuốc. Mẹ dù rất bận rộn, nhưng vẫn dành thời
gian đi nhổ cây cỏ thuốc, đem về rửa sạch và
phân ra từng loại rồi chế biến thành thuốc chữa
bệnh. Tôi thường giúp mẹ giã và sao thuốc, giúp
là giúp vậy chứ tôi chẳng biết thuốc gì là thuốc
gì. Có một năm, ở nhà, tôi hỏi mẹ làm như thế để
làm gì. Mẹ xoa đầu tôi nói: “Nói ra con cũng
không hiểu đâu, làng trên xóm dưới cỏ cây đều
khô trụi, lấy đâu ra thuốc mà uống?” May mà cuộc
sống bây giờ điều kiện vệ sinh tốt, bệnh ghẻ lở
bớt đi rất nhiều, hơn nữa bây giờ có thuốc tây
rất công hiệu.
Mẹ ở nhà thường hay hỏi nhà nào gặp khó
khăn, ai khổ đau, ai lầm lỡ, trên gương mặt mẹ
lúc nào cũng biểu hiện sự lo âu, khắc khoải. Mãi
cho đến bây giờ hình ảnh ấy vẫn còn khắc sâu
trong đầu tôi. Mẹ làm như cuộc đời này tất cả
nỗi khổ của người khác đều do mẹ tạo ra!
Mỗi lần nói xong một câu gì mẹ đều niệm
Nam Mô A Di Đà Phật hoặc Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi
còn nhớ, ở thời kỳ “Văn Cách”, mẹ thường nói với
mấy anh em tôi: “Bây giờ là thời loạn, xấu tốt
bất phân, các con nên làm việc thiện cho nhiều,
tuyệt đối không làm kẻ ác nhân, làm ác nhân sau
này ắt sẽ gặp ác báo”. Nhờ chúng tôi biết phận
nên cũng chưa làm gì xấu xa, nếu không, mẹ tôi ở
dưới cửu tuyền sẽ không yên lòng.
Mẹ không hiểu Phật pháp nhiều, không
biết thiền, chỉ biết niệm Quán Âm Bồ Tát và A Di
Đà Phật. Nhưng bà ngoại thì khác, bà là người
đọc qua nhiều sách, thiên văn, địa lý cổ kim đều
thông, đồng thời là người hướng Phật “Hành sở
ứng hành, thọ sở ứng thọ, chư ác bất tác, chúng
thiện phụng hành”. Mẹ tôi lúc nhỏ đã chịu ảnh
hưởng của bà ngoại về đối nhân xử thế. Sau này
tôi nghe mẹ tôi kể rất nhiều về những mẫu chuyện
thiện ác nhân quả báo ứng, những câu chuyện này
thời ấu thơ mẹ tôi nghe bà ngoại kể, vì thế mẹ
thường nói với chúng tôi: “Phàm làm việc gì phải
ngay thẳng vô tư, làm hết lòng bằng chính lương
tâm của mình. Đừng bao giờ cho rằng người khác
không biết việc của mình làm, tuy rằng có thể họ
không biết, nhưng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát biết”.
Anh em tôi có ngày hôm nay là nhờ mẹ
tảo tần hôm sớm nuôi nấng dạy dỗ. Ba tôi thì một
đời lam lũ, là người nông dân hiền lành chất
phát, chỉ biết an phận thủ thường. Mẹ tôi trừ
việc lao động chân tay, còn giáo dưỡng chúng tôi
trưởng thành. Mẹ không biết chữ, nên trong cuộc
đời đã chịu nhiều cay đắng. Vì vậy, mẹ quyết tâm
cho chúng tôi học hành đến nơi đến chốn. Cũng vì
việc học của anh em chúng tôi mà mẹ phải bán đất
bán ruộng không một chút do dự nào, nhưng nhà
tôi ruộng đất chẳng là bao nên mẹ phải thức thâu
đêm để may vá kiếm thêm tiền nuôi chúng tôi ăn
học. Mỗi khi mùa đông đến thì tiếng cọc cạch của
chiếc máy may cũ kỹ trong nhà tôi không bao giờ
ngừng nghỉ. May mà sau này xã hội thay đổi, nếu
không anh em tôi có thể sẽ không được đến trường
đến lớp.
Tôi nhớ, hồi còn đi học, mẹ sợ chúng
tôi thi không được lên lớp, nên mỗi khi kỳ thi
đến, tôi thấy mẹ đối trước tượng Quán Thế Âm Bồ
Tát đốt hương lâm râm cầu nguyện, mong sao cho
chúng tôi vượt qua kỳ thi dễ dàng. Lúc đó tôi
còn nói với mẹ mê tín như vậy thì được ích gì,
mẹ liền mắng tôi: “Đừng nói tầm bậy! Tâm thành
tắc linh. Con nói không có ích gì, vậy tại sao
có người học giỏi nhưng thi rớt lên rớt xuống?
Con không tin thì thôi, chứ mẹ thì tin lắm!” Nói
ra cũng lạ, tôi học thì dốt đặc cán mai, mà hồi
đó từ cấp Ι thi lên cấp ΙΙ rất khó, từ cấp ΙΙ
lên cấp ΙΙΙ càng khó hơn. Toàn huyện chỉ có một
hai trường cấp ΙΙΙ, mỗi trường chỉ lấy có hai
lớp, nhưng tôi may mắn được lọt vào một trong
hai trường đó, đây có lẽ là lời cầu nguyện của
mẹ tôi đã làm động lòng đến trời cao?
Mẹ xa chúng tôi đã tám năm, thọ 88 tuổi.
Mẹ ra đi thật nhẹ nhàng, chẳng đau ốm gì. Ngày
nay, lúc nào nhớ mẹ, tôi đem chuyện Quán Thế Âm
Bồ Tát và mẹ kể cho con mình nghe. Bây giờ nghĩ
kỹ lại, những việc làm của mẹ tôi lúc còn tại
thế hình như phảng phất đâu đó hình bóng của đức
Quán Thế Âm. Mẹ tuy mù mờ về Phật pháp, nhưng
trong lòng mẹ luôn nghĩ về điều thiện, cho nên
những việc mẹ làm vừa phù hợp với Phật lý, vừa
thắm đượm tình người. Đây gọi là “Phật pháp tại
thế gian, bất ly thế gian giác”; đồng thời cũng
chính là nguyên nhân để chúng tôi nhớ sâu sắc về
mẹ.
Thiên Trúc, mùa Vu Lan 2010


|