TIỂU SỬ
Đại Lão Hoà Thượng THÍCH GIÁC NGỘ
Môn Đồ Pháp Quyến
Điểm nổi bật
suốt cuộc đời tu tập và hoằng dương Chánh pháp
là Ngài luôn đề cao và nghiêm trì giới luật, là
tấm gương sáng ngời trong việc hành trì Phật
pháp. Ngài cũng khuyến khích, sách tấn tăng ni,
nhất là thế hệ tăng ni trẻ thực hành Phật pháp,
gìn giữ mạng mạch của Phật giáo, đồng thời
khuyên chư Tăng nên tập trung về một nơi để An
cư Kiết hạ hằng năm để thúc liễm thân tâm, trau
giồi giới định tuệ. Quả thật, Ngài là cây đại
thọ cho ngôi nhà Phật pháp, là bóng đại bồ đề
che mát cho hậu lai.
Chân dung Đại Lão Hoà Thượng THÍCH GIÁC NGỘ
I.Thân Thế
Hòa Thượng thượng
Giác hạ Ngộ thế danh là Nguyễn Hộ, sinh ngày
08-04-1924 (năm Ất Sửu), tại thôn Thiết Đính,
thị trấn Bồng Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình
Định. Ngài là con trai thứ ba trong gia đình có
bốn người con (hai chị và một em trai). Thân phụ
của Ngài là cụ Nguyễn Bình (tự Hồng) sinh năm
1882, và bà Lê Thị Kế sinh năm 1886. (Song thân
và chị em Ngài đều đã qua đời).
Thân phụ và thân
mẫu Ngài đều là Phật tử thuần thành, lại là gia
đình Nho giáo thuần lương, nên Ngài được giáo
dục trên tinh thần giáo lý Phật Đà, sớm hình
thành nơi Ngài những đức tính bi dũng xuất trần
thượng sĩ. Nhà Ngài ở gần chùa Phước Sơn, nên
thuở ấu thời Ngài thường được song thân đưa đến
chùa viếng thăm, tụng kinh, lễ Phật tại ngôi
chùa này. Với tư chất thông minh sẵn có, ngay từ
nhỏ Ngài đã thuộc các kinh Nhật Tụng và những
nghi thức thiền môn. Thời gian này Ngài cũng
theo học các lớp phổ thông.
II. Thời kỳ xuất gia tu học:
+ Vốn có túc
duyên từ nhiều đời, lại được giáo dục trong môi
trường tốt, chí xuất trần đã sẵn, năm lên 14
tuổi Ngài phát tâm Bồ đề, lập chí nguyện xuất
gia. Ngài xin song thân xuất gia tu học tại chùa
Phước Sơn huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định. Bổn sư đầu
tiên độ Ngài lúc ấy là Hoà Thượng Như Phước, tự
Giải Mộng, hiệu Tường Quang trụ trì chùa Phước
Sơn. Ngài quy y với pháp danh là Thị Hớn.
+ Năm 1943, lúc
Ngài 19 tuổi, sau năm năm tu học, Ngài được Hoà
Thượng Tường Quang cho thọ giới Sa Di tại giới
đàn Tổ đình Thiên Đức, Tuy Phước, Bình Định do
Hoà Thượng Thích Huệ Chiếu làm Đường Đầu.
+ Vốn bẩm tính
thông minh, lại có một đạo phong uy nghiêm ngay
từ khi còn nhỏ tuổi, nên Ngài được hoà thượng
Tường Quang rất thương mến. Nhận thấy khả năng
thông tuệ của Ngài sẽ tiến xa hơn, cao hơn trên
đường tu học, nên Hoà Thượng khuyên Ngài vào Tuy
Phước Bình Định, nơi có nhiều bậc Long Tượng
trong tòng lâm Phật pháp để cầu sự thọ giáo, tu
học.
+ Ba năm sau, năm
Ngài 21 tuổi, vâng theo lời chỉ dạy của HT.
Tường Quang, Ngài đảnh lễ vị Hoà thượng ân sư
khả kính, từ giã chùa Phước Sơn thân thương, và
khăn gói lên đường vào miền đất Tổ Tuy Phước,
Bình Định để tầm sư học đạo.
+ Năm 1946, với
túc duyên sư đồ từ trước, Ngài đã đến Tổ đình
Thiên Đức, xã Phước Hưng, Tuy Phước, Bình Định,
cầu HT. thượng Huệ hạ Chiếu làm Bổn sư. HT. Huệ
Chiếu hoan hỷ nhận Ngài làm đệ tử, và ban cho
pháp danh là Nguyên Uyên tự Chí Đạt, hiệu Giác
Ngộ. (HT. Giác Tánh lúc bấy giờ là sư huynh, HT.
Thiện Nhơn, Thiện Duyên, Quảng Xả, v.v… là đệ tử
của HT. Giác Tánh).
+ Năm 1952, Ngài
thọ giới Tỳ Kheo và Bồ Tát tại Đại giới đàn Tổ
đình Thiên Bình, xã Nhơn Phong, huyện An Nhơn,
tỉnh Bình Định. Đại Giới Đàn này, HT. Huệ Chiếu
làm Đường Đầu, HT Tâm Đạt, viện chủ Tổ đình
Thiên Bình làm Hoá chủ và Giáo thọ, HT. Phúc Hộ
làm Yết Ma A Xà Lê… Tại Đại giới đàn này, Ngài
được chọn làm Thủ Sa Di đứng đầu trong số các
giới tử, lúc bấy giờ Ngài vừa tròn 28 tuổi.
III. Thời Kỳ Hành Đạo:
+ Năm 1953, Ngài
được Giáo Hội Phật Giáo tỉnh Bình Định bầu làm
Chánh thư ký Phật giáo trong mặt trận Liên Việt,
và làm Uỷ viên Mặt trận Liên Việt, kiêm nhiệm
chức vụ Hội Đồng Nhân Dân xã Phước Hưng, lo các
mặt hoạt động đạo đức trong sinh hoạt của cộng
đồng Phật tử và nhân dân. Nhưng trọng tâm của
Ngài là hướng dẫn tín đồ tu học theo chánh pháp.
+ Năm 1954, với
nhu cầu Phật sự, cộng đồng Phật tử chùa Thiên
Trúc cung thỉnh Ngài trụ trì chùa Thiên Trúc,
thôn Bình Lâm, xã Phước Hoà, Tuy Phước, Bình
Định. Trong thời gian này, Ngài hướng dẫn Phật
tử tu học, đồng thời đào tạo Tăng chúng xuất gia,
chúng đệ tử được Ngài thế độ tại chùa này như:
TT. Thích Quảng Cố, TT. Thích Quảng Bửu, TT.
Thích Quảng Hoa (TT. Tâm Tường), TT. Thích Quảng
Hiện (đã viên tịch), v.v…
+ Trụ trì chùa
Thiên Trúc được hai năm, năm 1957, Ngài giao
chùa cho đệ tử là TT. Thích Quảng Cố trông nôm
để lên đường ra Huế tham gia các lớp nghiên cứu
Phật học tại Học viện Báo Quốc. Viện trưởng học
viện Báo Quốc lúc bấy giờ là HT. Thích Trí Thủ.
+ Sau bốn năm
nghiên cứu, tu học tại Học viện Báo Quốc, năm
1961, Ngài trở về chùa Thiên Trúc tiếp tục sứ
mệnh tiếp Tăng độ chúng, hướng dẫn mọi người tu
học. Đến năm 1963, Ban Tăng sự tỉnh hội Phật
giáo Bình Định (tổ đình Long Khánh, Quy Nhơn)
mời Ngài về tham gia công tác Phật sự cho Tỉnh
Hội Phật giáo Bình Định.
+ Qua thời gian
công tác Phật sự một năm tại Quy Nhơn, năm 1964
Trung ương Giáo hội Phật giáo quyết định bổ
nhiệm Ngài trụ trì chùa Pháp Lâm - Đà Nẵng,
hướng dẫn đồng bào Phật tử tại đây tu học.
+ Mãn nhiệm kỳ 2
năm Phật sự tại Đà Nẵng, năm 1966, Ban Trị sự
Phật Giáo Bình Định mời Ngài về Tổ Đình Long
Khánh để tham gia công tác giáo dục, đào tạo
tăng tài, kiêm chức vụ Đặc uỷ Văn hoá Phật giáo
Bình Định.
+ Năm 1966-1970,
Ngài làm giáo thọ tại các trường Bồ Đề chùa Long
Khánh, trường Bồ Đề Nguyên Thiều, Phật học viện
Nguyên Thiều. (Ngài cùng quý
HT. Thích Huyền Quang,
HT. Thích Giác Tánh,
HT. Thích Tâm Hoàn,
HT. Thích Đồng Thiện,
HT. Thích Bảo An,
HT. Thích Thiện Nhơn, HT. Thích Ngọc Lộ,
HT. Thích Đổng Quán
đồng sáng lập
Tu Viện Nguyên Thiều và Phật Học Viện Nguyên
Thiều.)
+ Năm 1970, Ngài
được chư Tăng Tổ đình Thập Tháp mời tham gia
công tác giáo dục về chuyên khoa Phật học và làm
Giám học của Phật học viện Phước Huệ trong hai
năm.
+ Năm 1972, Trung
Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
quyết định cử Ngài nhận lãnh trách nhiệm hoằng
pháp Cao nguyên, bổ nhiệm Ngài về trụ trì chùa
Tỉnh Hội (chùa Bửu Thắng), Pleiku, tỉnh Gia Lai.
+ Ngày 08 tháng
03 năm 1972, Ngài chính thức nhận nhiệm vụ trụ
trì chùa Bửu Thắng (chùa Tỉnh Hội). Ngài bắt tay
vào việc đầu tiên là chỉnh đốn thiền môn, trang
nghiêm tổ đình, hướng dẫn đạo tràng tu học.
IV. Nhiếp Hoá Đồ Chúng - Tổ Ấn Trùng Quang:
Chùa Bửu Thắng là
trung tâm hành đạo của Tỉnh hội Phật giáo Gia
Lai, có Văn phòng Hành chính Ban đại diện Phật
giáo Tỉnh hội - Văn phòng Ban hướng dẫn Gia đình
Phật tử tỉnh Gia Lai. Lúc này, Ngài đảm nhận
trách vụ Trụ trì, đồng thời, tham gia mọi công
tác Phật sự của tỉnh nhà.
Sau tháng
30-4-1975, địa bàn hành chánh tỉnh Gia Lai sáng
lập thêm tỉnh Kon Tum và tỉnh Phú Bổn, do vậy
mọi hoạt động của Giáo hội nói chung, cũng như
của Ngài nói riêng ngày càng nhiều, đòi hỏi thật
nhiều hy sinh và dấn thân phụng sự.
Chùa Tỉnh Hội vừa
là trung tâm sinh hoạt Phật giáo của tỉnh Gia
Lai, đồng thời là trung tâm của hai tỉnh: Kon
Tum và Phú Bổn. Ngài là bậc Cao tăng trụ trì
chùa Tỉnh Hội, nên trách nhiệm Phật sự của Ngài
đối với Giáo hội và quần chúng ngày càng lớn lao
hơn.
Suốt những thập
niên 1980 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế khó
khăn chung, Ngài cũng theo di huấn Tổ Lâm Tế
“nhứt nhật bất tác, nhứt nhật bất thực: Sáng bổ
củi, làm vườn, chiều tối kệ kinh, dạy bảo đồ
chúng”… Chùa Bửu Thắng là trung tâm An cư Kiết
hạ của chư Tăng toàn tỉnh. Nên hằng năm Ngài ra
sức chăm lo nơi ăn, chỗ nghỉ… cho chư Tăng trong
3 tháng An cư Kiết hạ, công việc đơn giản nhưng
không kém phần gian nan.
Đối với tổ chức
Gia Đình Phật Tử, Ngài nhắc nhở các anh chị
huynh trưởng phải biết hy sinh thời gian công
việc, lo dạy dỗ các em tu học không để đánh mất
nền văn hoá cao đẹp, cố gắng giữ gìn nền đạo đức
của tổ tiên. Ngài cũng nhắc nhở các vị trụ trì,
các ban Hộ tự, Bổn tự quan tâm giúp đỡ Gia đình
Phật tử để tiếp nối hậu lai, báo Phật ân đức.
Để ghi nhận và
tán dương những đóng góp của Ngài với Đạo pháp
và Giáo hội, tại Đại hội Phật giáo toàn quốc
nhiệm kỳ V, 2002–2007 Ngài được Đại hội Tấn
phong lên hàng Giáo phẩm Hoà Thượng. Cũng tại
Đại hội này, Ngài được suy tôn vào Hội Đồng
Chứng Minh Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam.
Đối với Phật giáo
tỉnh Gia Lai, Ngài đã có những đóng góp tích cực
cho Phật giáo tỉnh nhà. Tại Đại hội Phật giáo
tỉnh Gia Lai nhiệm kỳ II (2002–2007) và nhiệm kỳ
III (2007-2012), Ngài được cung thỉnh Cố vấn,
chứng minh Ban Trị Sự Phật Giáo tỉnh.
Gần 40 năm đảm
nhiệm chức vụ Trú trì tổ đình Bửu Thắng, vì tuổi
cao, sức yếu Ngài đã đề cử Thượng toạ Thích Tâm
Tường thay thế Ngài làm trú trì Chùa Bửu Thắng.
Tại cuộc họp mở rộng ngày 23-9-2006 giữa Ban Trị
Sự tỉnh Gia Lai cùng Ban hộ tự và toàn thể phật
tử chùa Bửu Thắng, toàn thể Tăng Ni, Phật tử đã
nhất tâm cung thỉnh Ngài giữ chức Viện chủ chùa
Bửu Thắng và Ngài đã hoan hỷ nhận lời. Suốt cuộc
đời tu học, hành đạo của Ngài ở nhiều nơi, nhưng
có lẽ chùa Bửu Thắng và đất Gia Lai là nơi Ngài
dừng chân lâu nhất.
Điểm nổi bật của
Ngài là suốt cuộc đời tu tập và hoằng dương
Chánh pháp là Ngài luôn đề cao và nghiêm trì
giới luật, là tấm gương sáng ngời trong việc
hành trì Phật pháp. Ngài cũng khuyến khích, sách
tấn tăng ni, nhất là thế hệ tăng ni trẻ thực
hành Phật pháp, gìn giữ mạng mạch của Phật giáo,
đồng thời khuyên chư Tăng nên tập trung về một
nơi để An cư Kiết hạ hằng năm để thúc liễm thân
tâm, trau giồi giới định tuệ. Quả thật, Ngài là
cây đại thọ cho ngôi nhà Phật pháp, là bóng đại
bồ đề che mát cho hậu lai.
Trên bước đường
thừa hành Phật sự từ Bình Định, đến Đà Nẵng, rồi
Gia Lai, Ngài luôn lấy tâm nguyện: “Tùy duyên
phổ hóa”. Ngài đã đóng góp nhiều cho công việc
trùng tu các chùa: Thiên Trúc (Bình Định), Pháp
Lâm (Đà Nẵng), Bửu Thắng (Gia Lai), v.v… những
nơi đi qua, Ngài đều để lại những dấu ấn khá sâu
lắng.
Trong cuộc đời
hoằng pháp độ sanh, Hoà thượng đã truyền trao
đuốc tuệ cho nhiều đệ tử xuất gia và tại gia.
Những đệ tử xuất gia của Ngài như: TT. Thích
Quảng Cố, TT. Thích Quảng Bửu, TT. Thích Quảng
Hoa (Thích Tâm Tường), TT. Thích Quảng Hiện, Đại
đức Thích Quảng Phát, Thích Nhuận Nhàn, Thích
Quảng Phước, Thích Quảng Trang, Thích Đức Thi,
Thích Quảng Từ, v.v… Ngài cũng quy y và trao
truyền năm giới cho hàng ngàn đệ tử tại gia ở
Bình Định, Đà Nẵng và Gia Lai nhất là ở thành
phố Pleiku.
V. Viên Tịch:
“Thân như điện
ảnh hữu hoàn vô”, vạn pháp đều vô thường,
đúng theo chân lý Phật dạy, với 86 năm hiện hữu
trên cuộc đời, thân xác hữu hình như ngôi nhà
trải qua thời gian dài sử dụng đến thời kỳ hư
hoại. Như Bồ tát Duy Ma thị hiện tật bệnh để hoá
độ chúng sanh, những năm cuối cuộc đời, thân xác
Ngài mang nhiều trọng bệnh. Dù các hiếu đồ của
Ngài đã nhiệt tâm chữa trị, nhưng thuận thế vô
thường, Ngài đã thâu thần thị tịch trong không
khí thiêng liêng, với âm vang của lời kinh kệ,
cùng tiếng niệm Phật siêu thoát của hàng đệ tử
xuất gia và tại gia.
Ngài viên tịch
vào lúc 10 giờ kém 10 ngày 19 tháng 11 năm 2010
(giờ tỵ, ngày 14, tháng 10, năm Canh Dần) tại Tổ
Đình Bửu Thắng, số 4A, đường Sư Vạn Hạnh, phường
Hội Thương, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, thế
thọ 86 tuổi, hạ lạp 59 năm.
Gần 60 năm tận
tụy hết lòng phục vụ Đạo pháp, Giáo hội, nghiêm
trì giới luật, khơi thông mạng mạch, thắp sáng
nguồn thiền, những đóng góp của Ngài cho đạo
pháp và quê hương thật đáng cao quý, không sao
kể hết, làm rạng danh cho ngôi nhà Phật giáo,
xứng danh: “Tòng lâm thạch trụ” của rừng thiền.
Hôm nay, mặc dù
Hoà Thượng đã đi vào cõi Niết-bàn bất sinh, bất
diệt, nhưng gương sáng ngời trí tuệ, giới hạnh
và tinh thần phục vụ Đạo pháp - Dân tộc suốt
cuộc đời của Ngài vẫn còn mãi với tăng tín đồ
Phật Giáo Việt Nam, với Phật tử Phố núi cổng
trời, với Tổ đình Bửu Thắng thân thương. Quả
thật: “Hoa Đàm tuy rụng vẫn còn vương hương.”
Nam Mô Từ Lâm Tế
Chánh Tông Tứ Thập Tứ Thế, húy thượng Nguyên hạ
Uyên, tự Chí Đạt, hiệu Giác Ngộ Bổn Sư Hoà
thượng Giác Linh thuỳ từ chứng giám.
Môn đồ pháp quyến kính bái
|