Đạo Phật Và Tuổi Hoa Niên
ĐÀO VĂN BÌNH
Tuổi hoa niên,
tuổi hoa, tuổi trẻ, hay thanh niên, thiếu nữ đều
là đối tượng của bài viết này. Thực ra đề tài
Đạo Phật và Tuổi Trẻ, có lẽ đã được cả ngàn các
vị Thánh Tăng, Đại sư, các học giả, trí thức
Phật giáo trên thế giới viết ra; cho nên bài của
tôi không có gì mới lạ, chỉ là một hạt cát trong
số cát của Sông Hằng.
Nếu nói thế thì
tại sao tôi lại viết? Theo tôi, mỗi người có một
hoàn cảnh sống khác nhau, kinh qua những giai
đoạn lịch sử khác nhau, đối diện với những khổ
đau, hạnh phúc khác nhau cho nên “tâm tình” dàn
trải có thể khác nhau và đến với Đạo Phật trong
những cảnh ngộ khác nhau.
Cùng chung với số
phận của dân tộc, Phật Giáo bị miệt thị, dày xéo
trong suốt 80 đô hộ của Thực Dân Pháp. Rồi sau
Thế Chiến II chấm dứt vào năm 1945, Việt Nam lại
triền miên khói lửa. Chiến tranh chỉ chấm dứt
năm 1975. Thử hỏi trong bối cảnh dân tộc tan tác,
chùa chiền đổ nát, nhân tâm ly tán, thế lực
ngoại bang đổ vào xâu xé đất nước, kéo dài thêm
30 năm, truyền thống, văn hóa dân tộc và Đạo
Phật không tiêu vong kể cũng là chuyện lạ lùng.
Chúng ta hãy nghe Hòa Thượng Thích Đức Nhuận,
trong “Đạo Phật và Dòng Sử Việt” viết: “…Và,
sau 83 năm Pháp cai trị nước ta, Đạo Phật quốc
gia Việt Nam chỉ được coi như một “Tôn giáo bản
địa”, bị gạt ra ngoài mọi sinh hoạt tập thể của
quốc gia này. Chính quyền bảo hộ của người Pháp
ra mặt nâng đỡ Thiên Chúa giáo và kỳ thị, đàn áp
Phật giáo, không cho phát triển. Như việc kiểm
tra Tăng chúng, việc dựng chùa phải có giấy
phép, có được mới được xây cất; việc hạn chế nhà
chùa, không được tạo mãi đất đai hay nhận của
cải của thập phương hỷ cúng. Với chính sách hủ
hóa dân tộc ta, thực dân Pháp đã rất rộng rãi
với những gì là mê tín dị đoan, hạn chế giáo
dục, cốt làm cho dân ta ngu dốt để chúng bảo sao
tin vậy. Đạo Phật cũng bị đồng hóa với những tà
thuyết ngoại đạo… Rồi từ chỗ xa lìa chánh pháp,
Đạo Phật nghiễm nhiên trở thành như một thần đạo
không hơn không kém. Mục đích của thực dân Pháp,
như đã thấy, là sự thống trị đất nước này và
không muốn cho dân tộc trở mình để lớn mạnh.
Nhưng, sau gần một thế kỷ bị trị, và sau trận
thế chiến thứ hai chấm dứt, dân tộc Việt cùng
với các dân tộc nhược tiểu khác trên thế giới đã
bừng tỉnh đứng dậy, giải phóng ách nô lệ cho con
người và giành quyền độc lập tự chủ cho quốc
gia, chấm dứt một chế độ lạc hậu, lỗi thời”.(1)
Trong bối cảnh tang thương của đất nước và dân
tộc như thế, tại sao “gốc Phật Giáo” trong tôi
không bị bứng đi mà lại có thể “gặp lại” Phật...
và trong hoàn cảnh như thế nào?
Tôi sinh ra ở Hải
Phòng năm 1942. Năm 1945 khi Nhật chiếm đóng
Việt Nam, hằng ngày, vào mỗi buổi sáng mẹ tôi
phải cõng tôi chạy vào hầm trú ẩn khi tiếng còi
báo động vang lên để tránh máy bay của Mỹ (Đồng
Minh) từ Vịnh Bắc Bộ bay vào oanh tạc. Khi Nhật
đầu hàng, dù mới ba tuổi tôi còn nhớ hình dáng
của đoàn quân Lư Hán lôi thôi lếch thếch tiến
vào đất nước ta giải giới quân đội Nhật. Rồi khi
quân Lư Hán rút lui, Pháp trở lại tái chiếm Đông
Dương năm 1946, cùng với toàn dân, cha mẹ tôi
nghe theo tiếng gọi “tiêu thổ kháng chiến ” bỏ
cả nhà cửa, chạy ra vùng “hậu phương kháng chiến”
và năm 1950 quay trở lại Hải Phòng trước cảnh
căn nhà cũ chỉ còn là một đống hoang tàn đổ nát.
Đây là lần đầu tiên tôi thấu hiểu câu “màn trời
chiếu đất”. Bố mẹ tôi và anh chị em phải nhặt
lại từng cục gạch, hái từng cọng rau muống mọc
dại trên nền nhà nấu ăn trong những ngày túng
thiếu lúc ban đầu. Rồi cuộc sống từ từ ổn định,
tôi được cắp sách đến trường.
Về đời sống tâm
linh, phải nói, bố mẹ tôi không hề biết Đạo Phật
là gì. Bàn thờ chỉ để cúng giỗ ông nội tôi, chứ
không thờ Phật. Bà nội tôi, theo Tứ Phủ tức Đồng
Bóng hay Đạo Mẫu. Trên điện thì thờ các quan lớn,
mẫu, ông hoàng rồi đến các cô, cậu, dưới là ngũ
hổ. Tuy nhiên trên cao nhất, may mắn vẫn thờ
Phật. Dĩ nhiên bà nội tôi không phải là tín đồ
Phật Giáo hoặc là một Phật tử hiểu theo đúng
nghĩa ngày nay. Thế nhưng có lẽ để cầu phúc,
thỉnh thoảng bà nội bảo tôi tụng Kinh A Di Đà.
Như vậy tôi đã có dịp “gieo duyên” với Phật pháp
từ lúc 8-9-10 tuổi. Nhưng thực ra tôi có ngồi
tụng kinh, gõ mõ cũng chỉ mong bà nội cho oản,
chuối chứ thật tình tôi chẳng hiểu Kinh A Di Đà
nói gì. Thật lạ lùng, trong chương trình Tiểu
Học lúc bấy giờ, dù môn lịch sử được giảng dạy
nhưng không có môn nào nói đến lịch sử các tôn
giáo có mặt tại Việt Nam, nhất là Phật Giáo đã
hiện diện trên đất nước này trên 1500 năm với
một quá khứ huy hoàng. Tất cả kiến thức về Đạo
Phật mà tôi biết được lúc bấy giờ là nhờ lúc
rảnh rỗi bà nội kể chuyện đi Chùa Hương lúc bà
nội còn trẻ, chuyện Bà Công Chúa Ba tức Quan Âm
Diệu Thiện, chuyện Quan Âm Thị Kính với hai câu
thơ bà nội đọc cho mà tôi còn nhớ:
“Tiểu Kính Tâm
lấy chồng Thiện Sĩ,
Tỉa râu chồng
mang tiếng bội phu…”
…và nhất là Tây
Du Ký kể chuyện Tam Tạng đi thỉnh kinh mà bọn
trẻ chúng tôi phải “thuê truyện” để đọc, dĩ
nhiên đọc say mê.
Năm 1954
khi đất nước chia đôi, gia đình tôi vào Nam. Sau
một vài năm thì cuộc sống của người “di cư” cũng
ổn định. Từ một người không hề biết thần thánh
là gì - mẹ tôi - không hiểu do một phúc duyên
nào, cùng với một bà bạn hàng xóm thường xuyên
đi lễ Chùa Phổ Quang - Phú Nhuận. Sau một thời
gian hết sức kiên nhẫn thuyết phục bố tôi đi
chùa, bàn thờ Phật được thiết lập trang nghiêm ở
nhà. Tuy nhiên kiến thức Phật Giáo của tôi lúc
này hoàn toàn là con số không cho đến ngày
1/11/1963.
Sau khi quân đội
đứng lên làm cuộc đảo chính lật đổ chế độ độc
tài gia đình trị Ngô Đình Diệm, đàn áp tôn giáo
của Ngô Triều, Phật Giáo như một thân cây khô
héo sau mùa đông dài hiu hắt, được kích thích
bởi nắng xuân ấm áp bỗng đâm chồi nảy lộc. “Ý
thức Phật Giáo” tưởng chừng như đã tàn lụi trong
lòng dân tộc, bỗng bừng lên trong lòng mọi người,
nhất là tầng lớp thanh niên, sinh viên. Gia đình
tôi nghèo, cư ngụ tại khu lao động, nhà tôn vách
ván cho nên buổi trưa nóng nực, vả lại tiếng máy
thu thanh (radio) của hàng xóm lúc nào cũng oang
oang cho nên ngoài thời gian ở giảng đường Luật
Khoa, tôi thường vào các thư viện, dưới những
tàng cây ở công viên hoặc sân chùa để có một nơi
yên tĩnh học bài. Chính tại sân Chùa Xá Lợi (Sài
Gòn) tôi đã gặp một “báu vật” khai mở trí tuệ
cho tôi, đó là bài pháp của Đại Đức Narada Maha
Thera (2).
Sau Pháp Nạn
1963, tăm tiếng của Phật Giáo Việt Nam vang xa.
Thế giới Tây Phương
nhất là người Mỹ mới chưng hửng, tưởng đâu xứ sở
này là Thiên Chúa Giáo, ngờ đâu 90% là Phật
Giáo. Quý Hòa thượng, Thượng tọa lãnh đạo Phật
Giáo Miền Nam lúc bấy giờ đã cho mời một số Cao
Tăng trên thế giới tới thuyết giảng, trong đó có
Đại Đức Narada đến từ Tích Lan. Chính tại ngôi
Chùa Xá Lợi này, tôi nhặt được một cuốn sách nhỏ
(booklet) nhan đề “Cốt Tủy Của Đạo Phật” của
Ngài. Nội dung cuốn sách thật ngắn gọn nhưng đầy
đủ và thuyết phục trong đó có một câu nói của
Đức Phật: “Kinh giáo của ta như ngón tay chỉ mặt
trăng”. Vừa đọc xong câu này, tôi vội xếp cuốn
sách lại và trong tôi bừng vỡ một niềm sung
sướng và cảm phục: “Trời ơi, sao ông Phật
này chân thật quá!”
Với kiến
thức
về tôn giáo của tôi - một sinh viên sắp bước lên
năm thứ hai của Đại Học Luật Khoa Sài Gòn lúc
bấy giờ thì...đối với các đạo thờ thần (God),
không có một thứ gì không thuộc về vị giáo chủ.
Vũ trụ này do Ta sáng tạo. Ánh sáng này do Ta mà
có. Bóng tối cũng thuộc về Ta. Cả cái trí khôn
hay trí tuệ của loài người cũng do Ta mà có. Nếu
không có Ta thì đầu óc loài người cũng như đầu
óc thú vật mà thôi. Chân lý ở trong Ta. Ta là
hiện thân của công lý. Miếng cơm manh áo mà các
người đang ăn, đang mặc kia cũng do Ta mà có. Vợ
con nhà ngươi cũng do Ta sắp đặt hết. Ta bảo
chết là chết, bảo sống là sống. Nói tóm lại,
loài người trần trụi, không có một thứ gì hết.
Tất cả thuộc về thần linh giáo chủ.
Trong khi đó thì
ngược
lại, Đức Phật không “vơ vào” những gì không phải
của mình. Luật Vô Thường không phải của Đức
Phật. Sinh-Lão-Bệnh-Tử không do Phật bày ra. Cái
Chết không do Phật thiết kế. Niết Bàn không phải
là đặc hữu của Phật mà bất cứ chúng sinh nào,
nếu chịu nương theo giáo lý của Chư Phật (nương
theo ngón tay) thì cũng đạt được Niết Bàn (tức
thấy mặt trăng). Cuộc sống vui, buồn, sướng, khổ
của thế giới này không phải do Phật hóa phép, mà
do nghiệp lực vận chuyển từ vô thủy của chúng
sinh. Trước khi Phật ra đời con chim ăn con sâu.
Khi Đức Phật ra đời con chim tiếp tục ăn con
sâu. Khi Đức Phật thành đạo con chim vẫn ăn con
sâu. Khi Đức Phật nhập diệt con chim vẫn ăn con
sâu. Tất cả đều Như Thị và Như Thị. Đức Phật
không thể thay đổi được thế giới vật lý này. Đức
Phật không dạy cách “di sơn đảo hải”, biến cát
thành cơm, biến người chết thành người sống,
biến tội ác thành thánh, biến kẻ đui mù thành
mắt sáng, biến kẻ què cụt thành lành lặn…mà Đức
Phật chỉ dạy phương pháp khiến con người thoát
khỏi khổ đau và sống một cuộc đời thánh
thiện.
Cái gì của Phật A
Di Đà thì Phật nói đó là của Phật Di Đà, cái gì
của Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát thì Phật nói của
Địa Tạng Vương Bồ Tát. Cái gì của Ngài Quán Tự
Tại Bồ Tát thì Đức Phật nói của Ngài Quán Tự Tại.
Đức Phật cũng không chủ trương đời đời độc quyền
thống ngự thế giới. Trong quá khứ đã có nhiều vị
Phật thuyết pháp độ sinh, trong tương lai sẽ có
Phật Di Lặc ra đời. Đức Phật luôn luôn nói lời
chánh ngữ, nói lời chân thật (quảng trường thiệt).
Đức Phật không bao giờ nói lời lừa mị, nói lời
gian dối, nói lời hoang tưởng, nói lời không thể
kiểm chứng, và cũng không nói lời tiên tri phỏng
đoán vu vơ. Đức Phật không bao giờ nói hai lời,
lúc rày lúc khác. Đức Phật không bao giờ nói lời
mâu thuẫn trái-chống nhau. Đức Phật không bao
giờ tự phong mình là quan tòa để phán xử ai.
Ngài chỉ nói về Nhân Quả chứ không bao giờ đe
dọa trừng phạt ai. Kinh giáo của Đức Phật dù
trải qua hơn 2500 năm không bao giờ phải sửa
chữa, thay đổi cho hợp thời thế. Các Giáo hội
Phật Giáo trên toàn thế giới cũng chẳng bao giờ
phải tạ lỗi với nhân loại về những tội ác hoặc
những sai lầm gây tạo trong quá khứ.

Thưa các bạn,
Vậy thì
yếu tố đầu tiên tôi đến với Đạo Phật là vì thấy
“ông Phật” là con người thành thật. Giáo lý của
Ngài là giáo lý chân thật. Ý nghĩ của Ngài là ý
nghĩ thành thật. Theo tôi, Chân Thật (honesty)
là tiêu chuẩn đạo đức cao nhất. Thiếu thành thật,
xa rời sự thật, phản lại sự thật, che dấu sự
thật thì mọi giá trị đều sụp đổ kể cả những gì
gọi là linh thiêng, thánh thiện.
Với lời
phi lộ như thế tôi xin mời quý bạn tiến vào ngôi
nhà Phật Giáo. Dĩ nhiên khi tiến sâu vào Đạo
Phật các bạn sẽ thấy Chân Thật không phải là đức
tính duy nhất của Đức Phật, mà Ngài còn có bao
nhiêu đức tính tốt đẹp khác (Minh Hạnh Túc) mà
thế gian này không một ai có thể đạt được. Trong
một rừng giáo lý của Đức Phật dày gấp 11 lần
cuốn Kinh Thánh của Ky Tô Giáo, tôi phải lựa
chọn cái gì để tâm tình với các bạn đây?
Noi gương
các bậc thiện tri thức và Thánh Tăng chẳng hạn
như Ngài Narada và Đức Đạt Lai Lạt Ma, thường
nói chuyện với các bạn trẻ về Bát Chánh Đạo, tôi
cũng dùng Bát Chánh Đạo để thưa chuyện với các
bạn. Tiêu chuẩn của tôi là: - Nếu Bát Chánh Đạo
làm cản trở, hoặc chướng ngại hoặc không giúp
ích gì cho các bạn trên con đường học hành, tiến
thân, tạo lập sự nghiệp và hạnh phúc gia đình...thì
xin các bạn đừng nghe và đừng tin theo Đạo Phật.
Tôi sẽ dùng ngay xã hội Hoa Kỳ là nơi mà hầu hết
các bạn trẻ trên thế giới ngưỡng mộ, mong muốn
và thèm khát (ngoại trừ các bạn trẻ ở Bắc Âu) để
ứng dụng Bát Chánh Đạo chứ không phải chỉ gò bó
các bạn trong khuôn khổ của các quốc gia chậm
tiến, nghèo khổ để quảng cáo về Bát Chánh Đạo.
Vậy Bát Chánh Đạo là gì?
Bát Chánh
Đạo là tám con đường tốt lành, chân chính, đúng
đắn nhất để con người sống hạnh phúc và cao
thượng. Bát Chánh Đạo gồm có: Chánh Mệnh, Chánh
Nghiệp, Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ,
Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.
1. Chánh Mệnh:
Chánh
Mệnh là yêu mến mạng sống của mình, yêu mến cuộc
sống của mình. Do đó tự tử, hủy hoại thân thể,
ép xác, để thân hình bệnh tật, yếu đuối, đầu óc
thiếu minh mẫn không phải là Chánh Mệnh. Nhưng
yêu mến cuộc sống không có nghĩa là bồi đắp quá
đáng cho thân mình như ăn mặc diêm dúa, quần áo
đắt tiền, trưng diện kim cương, ngọc thạch, vàng
bạc, ăn nhậu, chè chén, chơi bời trác táng để
thỏa mãn xác thân. Những thứ đó không phải là
Chánh Mệnh. Các bạn có biết rằng nước Mỹ là một
nước ăn mặc giản dị nhất thế giới không? Các bạn
có biết rằng hầu như cả nước Mỹ, dù già dù trẻ,
mỗi ngày đều tới phòng tập thể dục khoảng tiếng
đồng hồ, hoặc chạy bộ ngoài công viên, hoặc đạp
đạp xe...để giữ gìn sức khỏe không? Các bạn có
biết rằng kỹ nghệ giúp người ta Diet (kiêng khem)
ăn uống bớt đường, bớt mỡ để tránh bệnh cao
huyết áp là kỹ nghệ hái ra tiền không? Ngày nay,
do ảnh hưởng của Đạo Phật, Hoa Kỳ và Tây Phương
đang tiến dần đến chế độ ăn chay để bảo vệ sức
khỏe và cũng là để tránh giết hại thú vật. Như
vậy Chánh Mệnh có gì làm cản trở cuộc sống tươi
đẹp của bạn? Hay chính nó lại giúp cho cuộc đời
của bạn tươi đẹp hơn?
2.Chánh Nghiệp:
Chánh Nghiệp là chọn lựa một nghề nghiệp chính
đáng để sinh sống. Tại thế giới Tây Phương,
ngoại trừ những nghề như trộm cướp, mãi dâm,
buôn người, làm bạc giả...thì không có nghề gì
gọi là xấu. Cảnh sát lo an ninh trật tự cho xã
hội, giám thị trại giam thi hành luật pháp để
giam giữ phạm nhân... đều là những nghề cao quý.
Những công ty cung cấp thịt cá, các lò sát sinh
cũng không phải là nghiệp xấu vì họ cung cấp
thực phẩm cần thiết cho dân chúng chứ bản thân
họ cũng không muốn giết hại thú vật. Nhưng mới
đây Đức Đạt Lai Lạt Ma đã phản đối kỹ nghệ nuôi
gà quá tàn ác tại Hoa Kỳ, vì cách nuôi phản lại
thiên nhiên và hành hạ thú vật quá mức. Tuy
nhiên ý nghĩa của Chánh Nghiệp còn đi xa hơn nữa.
Chánh Nghiệp còn có nghĩa là chúng ta phải hành
xử nghề nghiệp của chúng ta một cách lương hảo,
không lường gạt, gian trá, luôn luôn phải lấy
chữ Tín làm đầu. Tại Hoa Kỳ, bất cứ ai làm một
nghề gì cũng phải tuân thủ quy tắc đạo đức gọi
là “Code of Ethics”, từ phóng viên báo chí đến
tòa án, luật sư, bác sĩ, ngân hàng, người sửa xe,
bán hàng siêu thị...nếu vi phạm vào lương năng
chức nghiệp, lập tức bị công luận lên án và đưa
ra tòa xét xử. Như vậy phải chăng Chánh Nghiệp
chính là ngọn đuốc soi đường cho chúng ta chọn
một nghề nghiệp chân chánh, rồi hành nghề trong
tinh thần trọng pháp, vừa sinh sống vừa phục vụ
nhân quần xã hội, trong tinh thần đạo đức. Xin
bạn nhớ cho, con người không phải chỉ bị hủy
diệt bởi chiến tranh, thiên tai, bệnh tật mà còn
bị hủy diệt bởi sự thiếu chân chính mà con người
dùng để đối xử với nhau.
3.Chánh Kiến:
Chánh Kiến là nhìn sự vật một cách ngay thẳng và
không thiên lệch. Từ ngàn xưa đến giờ, sự ghét
bỏ, sự kỳ thị, sự ngăn cách và thù hận đều gây
ra bởi cái nhìn thiên lệch. Chính các yếu tố như
chủ nghĩa, tôn giáo, mầu da, chủng tộc, đảng
phái, quyền lợi và kể cả tình yêu... đã làm
người ta không còn nhìn sự vật một cách khách
quan nữa. Khi đã có cái nhìn thiên lệch thì hành
động thiên lệch. Hành động thiên lệch đưa đến
bất công. Từ bất công đưa đến chia rẽ, thù hận.
Nếu bạn là thanh niên sinh viên tại các nước Á
Châu và mong mỏi du học hoặc sinh sống ở Hoa Kỳ
hoặc các quốc gia Âu Châu, xin bạn ngay từ bây
giờ hãy tự trang bị cho mình quan điểm Chánh
Kiến. Nếu không, bạn sẽ cảm thấy lạc lõng hoặc
lạ kỳ trong một xã hội mà những nhận xét thiếu
vô tư, thiên lệch, định kiến... hầu như đang bị
loại trừ và không còn chỗ đứng. Vì muốn tạo bình
an cho nhân loại, muốn chân lý được thể hiện mà
Đức Phật luôn luôn giáo hóa hàng đệ tử là phải
luôn luôn quán xét sự vật một cách thận trọng,
quán xét một cách công minh và xa hơn nữa quán
xét với tâm Từ Bi (Từ Bi Quán) để không gây khổ
lụy cho người và giữ gìn phẩm hạnh đạo đức của
chính mình. Quan điểm đúng đắn - tức Chánh Kiến
- về mọi vấn đề của xã hội luôn luôn được trân
trọng và mọi người lắng nghe.
4.Chánh Tư Duy:
Chánh Tư Duy là suy nghĩ một cách chân chính.
Thế nào là suy nghĩ chân chính? Không suy nghĩ
về những điều ác, không suy nghĩ về những gì tổn
hại cho mình và cho người. Không suy nghĩ về
những gì làm tổn hại đến hạnh phúc của người
khác. Không suy nghĩ về những gì gian trá, thiếu
lương thiện, thiếu thành thật, thiếu bao dung,
thiếu Từ Bi, thiếu nhân đạo...như thế gọi là
Chánh Tư Duy. Để có Chánh Tư Duy chắc chắn là
phải có Chánh Kiến bởi vì nếu đã có Tà Kiến thì
chắc chắn sẽ đẻ ra suy nghĩ thiếu chân chính.
Tuy nhiên Phật Giáo không dừng ở chỗ đó. Chánh
Tư Duy còn nhìn vào bản thể sự thật của vũ trụ
và nhân sinh. Sự suy nghĩ cho rằng tất cả những
gì đang xảy ra trước mắt đây đều do sự an bài
của Đấng Thần Linh (God), suy nghĩ cho rằng Thần
Linh có thể rửa sạch những tội ác kinh khiếp và
biến nó thành phước, suy nghĩ cho rằng không có
Quả Báo gì hết, làm ác vẫn được sung sướng...những
suy nghĩ như thế đều không phải là suy nghĩ chân
chính. Vậy thì dưới góc cạnh khoa học, Chánh Tư
Duy chính là sự suy nghĩ cẩn trọng, thấu đáo về
mọi sự kiện xảy ra chung quanh mình trong tinh
thần khách quan, vô tư không ngoài mục đích mở
mang trí tuệ và đem lại lợi ích cho mình và cho
người. Chánh Tư Duy chính là khởi đầu của phương
pháp khoa học.
5.Chánh Ngữ:
Qua ngôn ngữ, qua cách ăn nói chúng ta có thể
nhìn thấy tình cảm, phẩm hạnh và trí tuệ một
người. Chánh Ngữ có nghĩa là:
-Nói lời ngay
thẳng mà không nói lời gian dối.
-Nói lời êm ái mà
không nói lời hung bạo.
-Nói lời chân
thật mà không nói lời lừa mị.
-Nói lời đạo đức
mà không nói lời gian tà.
-Nói lời giải oan
mà không nói lời kết tội.
-Nói lời dịu êm
mà không nói lời xỉ vả.
-Nói lời nâng đỡ
mà không nói lời ghét bỏ.
-Nói lời tin
tưởng mà không nói lời bi ai.
-Nói lời kết đoàn
mà không nói lời chia rẽ.
-Nói lời thứ tha
mà không nói lời trói buộc.
-Nói lời chở che
mà không nói lời hắt hủi.
-Nói lời Từ Bi mà
không nói lời cay nghiệt.
-Nói lời khiêm
tốn mà không nói lời khoa trương.
Các bạn
có biết không, tại Hoa Kỳ, nhiều dân biểu,
thượng nghị sĩ, bộ trưởng, phóng viên, nhà báo
sự nghiệp lẫy lừng, cũng chỉ vì một lời nói sơ
xuất mà sự nghiệp tiêu tan. Vậy thì hành trang
Chánh Ngữ sẽ giúp các bạn trở nên một người có
phẩm hạnh, được mọi người quý trọng, thương mến
và dĩ nhiên giữ an vui cho cuộc sống của chính
mình. Đó cũng là chìa khóa của sự thành công lớn
và bền vững. Cứ tưởng tượng trong một tập thể,
một gia đình, một xã hội mà toàn là những lời
gian dối, toàn là những lời hung bạo, những lời
chửi rủa thì xã hội, tập thể và gia đình đó như
thế nào? Chánh Ngữ cũng là hình ảnh của một Cung
Trời an vui và thánh thiện đó bạn ạ!
6.Chánh Tinh Tấn:
Chánh Tinh Tấn là cố gắng, nỗ lực không ngừng để
đạt mục tiêu tốt lành mà mình đã đề ra. Ngày nay
thế giới đang ở vào cuộc chạy đua khốc liệt.
Quốc gia này chạy đua với quốc gia khác. Tổ chức
này chạy đua với tổ chức khác. Tôn giáo này cạnh
tranh với tôn giáo khác. Công ty này cạnh tranh
với công ty khác. Cá nhân này ganh đua với cá
nhân khác trong nghề nghiệp sinh sống nếu không
muốn bị đào thải. Sinh viên ra trường phải cạnh
tranh với bạn mình để tìm việc. Tìm được việc
làm rồi mỗi năm lại phải trau dồi thêm kiến thức
nếu không muốn bị lạc hậu và có khi mất việc.
Thế hệ trẻ chịu rất nhiều áp lực xã hội mà thế
hệ cha anh không có. Chính vì thế mà sự căng
thẳng (tress), và thúc ép (pressure) của cuộc
sống gia tăng. Thế nhưng theo lời Phật dạy, các
bạn trẻ phải nỗ lực vươn lên, nhưng trong tinh
thần trọng pháp và ngay thẳng. Còn trong thể
thao, hoặc các môn chơi, Chánh Tinh Tấn có nghĩa
là ganh đua trong “tinh thần thượng võ”. Còn đối
với các bậc tu hành, Chánh Tinh Tấn có nghĩa là
trên con đường tiến tu để đạt Thánh quả, không
sợ ngăn ngại hay thối chuyển vì các chướng duyên,
vì hoàn cảnh éo le, vì cám dỗ, vì mệt mỏi, vì
dao động và hồ nghi. Còn các bạn trẻ, với đời
sống của một Phật tử bình thường, Chánh Tinh Tấn
còn có nghĩa là luôn luôn học hỏi thêm để mở
mang trí tuệ, không thối chí ngã lòng khi gặp
thất bại, không bỏ cuộc nếu mục tiêu theo đuổi
là tốt đẹp. Chánh Tinh Tấn khiến bạn sống vui và
tin tưởng.
7.Chánh Niệm:
Chánh Niệm có nghĩa là nhớ nghĩ tới những gì
chân chính và tốt lành. Cuộc sống của chúng ta
đây có quá nhiều phiền trược và khổ đau. Hầu như
ai ai cũng từng trải qua những mất mát, tình yêu
đổ vỡ, thất bại, bất ưng, nhọc nhằn trong quá
khứ. Những điều đó hằn sâu vào tiềm thức (A Lại
Da) (3) của chúng ta và có thể kéo lê nhiều kiếp.
Ký ức giúp chúng ta nhưng cũng làm khổ chúng ta.
Trong cuộc sống, dù chúng ta đang ở vào thì hiện
tại nhưng lại bị tác động bởi gánh nặng của quá
khứ. Quá khứ do những người đi trước để lại và
do chính chúng ta tạo tác. Do đó, để sống an
bình và hạnh phúc, chúng ta phải biết chọn lọc
tức biết quên và biết nhớ những gì. Trên tinh
thần đó, Chánh Niệm nghĩa là:
-Hãy nhớ nghĩ đến
những gì tốt đẹp.
-Hãy nhớ nghĩ tới
những gì lợi lạc cho đời.
-Hãy nhớ nghĩ tới
những gì là tương lai tươi sáng.
-Hãy nhớ nghĩ đến
những người đã gia ân cho mình
-Hãy nhớ nghĩ đến
những người đã từng giúp đỡ mình.
-Hãy nhớ nghĩ tới
những lỗi lầm trong quá khứ để không tái phạm.
-Nhưng hãy quên
đi thù hận
-Hãy quên đi
những oán hờn, vay trả trong quá khứ.
Chánh
Niệm theo cái nhìn của các tâm lý gia, trên một
góc độ nào đó gọi là “giải tỏa những ẩn ức”
nhưng trong Phật Giáo còn có ý nghĩ hướng thượng
và tạo bình an trong tâm tưởng để hướng về tương
lai.
8.Chánh Định:
Theo Phật Học Phổ Thông do Hòa Thượng Thích
Thiện Hoa biên soạn thì Chánh Định là tập trung
tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với
chân lý, có lợi ích cho mình và cho người. Chánh
Định gồm những phép Quán như: Quán Thân Bất Tịnh,
Quán Từ Bi, Quán Nhân Duyên, Quán Giới Phân Biệt
(sự giả hợp của sáu căn) và Quán Sổ Tức (hơi thở).
Theo tôi, Chánh
Định như vậy khó quá chỉ dành cho các bậc xuất
gia hoặc cư sĩ tại gia. Còn đối với các bạn trẻ,
Chánh Định là hành Thiền để cho đầu óc thanh
thản. Hiện nay trên toàn nước Mỹ và Canada có
khoảng trên 1000 Thiền đường (Medition Center)
là nơi giải thóat tâm linh, là nơi thật sự “cứu
rỗi” (theo danh từ của Ky Tô Giáo) và “cứu khổ”
(theo danh từ của Phật Giáo) cho hằng triệu
người Mỹ da trắng đã từng khẩn thiết cầu nguyện
Thần Linh (God) nhưng không đem lại kết quả. Một
số tài tử điện ảnh, danh ca nổi tiếng Hoa Kỳ,
khi đi đâu xa họ đều mang theo một tượng Phật
nhỏ, để rồi sau những buổi trình diễn căng thẳng
và mệt nhọc, trở về phòng nghỉ, họ đặt tượng
Phật lên và bắt đầu ngồi Thiền. Nhờ hành Thiền
mà họ được an tĩnh tâm hồn, tìm lại sự thanh
thản từ đó lạc quan, yêu đời, tránh được căn
bệnh buồn chán, nhàm chán…dễ đi đến mất ngủ rồi
uống thuốc an thần, hút xì-ke ma túy, nghiện
rượu như một thói quen của các nghệ sĩ trình
diễn, tài tử xi-nê. Dĩ nhiên hành Thiền không
phải dễ. Muốn làm được điều này, các bạn nên học
qua một khóa tu Thiền nơi các vị Thiền sư.
Xuyên qua
Bát Chánh Đạo, các bạn đã thấy phần nào cốt lõi
của Đạo Phật, đã thấy ngôi nhà Phật Giáo lung
linh đầy mầu sắc giống như Lưới Đế Châu của Trời
Đế Thích, và các bạn có thể dùng Bát Chánh Đạo
làm hành trang để vào đời: Một cuộc đời an vui,
đầy ý nghĩa và có thể nói là cao thượng vì Đức
Phật suốt đời chỉ giảng dạy việc giúp đỡ người
khác và không làm tổn hại đến người khác. Để làm
kết luận cho bài này, tôi xin trích dẫn ở đây
một số lời giảng của một vài vị Cao Tăng dành
cho các bạn trẻ trên thế giới, như một hành
trang phụ thêm cho các bạn.
Trong cuốn sách
“Phật Pháp Cho Sinh Viên” (4) viết bằng chữ Thái,
Rod Bucknell dịch ra Anh Ngữ và Thiện Nhựt
chuyển qua Việt Ngữ, Đại Sư Buddhadasa Bhikkhu
nơi trang 23 đã giảng dạy như sau: “Đức
Phật dạy rằng các pháp hữu vi, tức là mọi sự vật
và mọi chúng sanh trên thế gian đều vô thường vì
chúng luôn luôn trôi chảy, biến đổi, hoại diệt.
Chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức. Hãy thận
trọng ghi nhớ lời dạy này. Mọi sự vật trên thế
gian đều luôn luôn trôi chảy, biến đổi, hoại
diệt tức là vô thường. Đừng đùa với chúng. Chúng
sẽ cấu xé bạn, sẽ tát vào mặt bạn, sẽ cột trói
và giữ chặt bạn. Rồi bạn sẽ ngồi bệt xuống đất
mà khóc than, và biết đâu lại muốn tự tử nữa!”
(trang 23)
Còn Đại Sư Tinh
Vân (Hsing Yun) Đài Loan, trong cuốn sách nhỏ
nhan đề “Looking Ahead: A Guide for Young
Buddhists” đã viết như sau, tôi xin dịch ra Việt
Ngữ: “Phật
Giáo giống như một ngọn núi cao. Khi trèo lên
chúng ta sẽ thấy tất cả mọi hiện tượng. Phật
Giáo lại giống như một đại dương. Nếu chúng ta
thấu hiểu, trí tuệ của chúng ta sẽ rộng lớn và
không ngằn mé. Mỗi người trong chúng ta đều có
thể làm cho mình trở nên thanh sạch và dũng mãnh
qua những lời chỉ dẫn và giáo pháp, nói một cách
tổng quát, giúp và giải phóng muôn loài bằng
cách đem lại lợi lạc và hạnh phúc cho tha nhân,
và chính chúng ta tự thăng hoa qua thiền
định và trí tuệ.” (Trang 40) (5)
Còn Giáo sư Rhys
Davids (6) sau khi nghiên cứu Phật Giáo, đã kết
luận mạnh mẽ như sau trong cuốn “Phật Giáo Là Gì”
của Đại Sư Narada Maha Thera do Phạm Kim Khánh
dịch ra Việt Ngữ: “Dầu
là Phật tử hay không phải Phật tử, tôi nghiên
cứu từng hệ thống tôn giáo lớn trên thế giới, và
trong tất cả, tôi không tìm thấy trong tôn giáo
nào có cái gì cao đẹp và tòan vẹn hơn Bát Chánh
Đạo của Đức Phật. Tôi chỉ còn có một việc làm là
thu xếp nếp sống cho phù hợp với con đường
ấy”. (trang 23)
Đào Văn Bình -
California 12/2010
Cước chú:
(1) Hòa
Thượng Thích Đức Nhuận - Nguyên Chánh Thư Ký
Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Gíao Việt Nam
Thống Nhất (sinh năm 1924, viên tịch năm 2002).
(2) Đại
Sư Narada Maha Thera sinh năm 1898 tại Tích Lan,
viên tịch năm 1983, tốt nghiệp St. Benedict’s
College & Ceylon University College. Thập niên
1960 Ngài thường thăm viếng miền Nam Việt Nam để
thuyết pháp và biếu tặng một cây Bồ Đề trồng ở
Thích Ca Phật Đài, Vũng Tàu.
(3)
Tiềm Thức hay Tạng Thức, thức thứ tám hay Nghiệp
Thức
(4) Đại
Sư Buddhadasa Bhikkhu (Phật Lệ) xuất gia năm
1923 sau đó thành lập Thiền Viện Giải Thoát tại
Thành Phố Pum Riang, Thái Lan. Ngài chú tâm hành
Thiền Minh Sát và trở nên một biến cố quan trọng
của lịch sử Phật Giáo Thái Lan. Ngài thị tịch
năm 1993.
(5) Đại
Sư Tinh Vân (Hsing Yun) sinh năm 1927 tại Giang
Tô (Trung Hoa) thọ giới Tỳ kheo năm 1941 (?)
sau những năm tu hành gian khổ. Năm 1949 ngài
qua Đài Loan và làm sống lại Phật Giáo Đại Thừa
Trung Hoa. Ngài vân du khắp thế giới để thuyết
giảng và tích cực tham gia vào các cuộc đối
thoại về tôn giáo. Mười sáu trường cao đẳng Phật
học trong đó có University of the West in
Rosemead, California nằm dưới sự giám sát của
Phật Quang Sơn (Fo Guang Shan) là một tu viện và
cơ sở Phật Giáo do ngài sáng lập.
(6)
Giáo Sư Thomas William Rhys Davids sinh năm 1843
mất năm 1922 là một học giả người Anh về tiếng
Pali và là sáng lập viên của Pali Text Society.
Ông là con cả của một mục sư cai quản giáo đoàn
Welch (Anh quốc) được mọi người thương mến coi
đó như Giám Mục của Essex (Bishop of Essex).



|