Thong Dong Giữa Đôi Dòng Thuận Nghịch
Thích Thái Hòa

Ta làm và nói sai,
nhưng ta lại được nhiều người khen ngợi mỗi ngày,
như vậy mỗi ngày đi qua đời ta là mỗi ngày đưa
đời sống của ta đi dần vào bóng đêm và từ bóng
đêm này dẫn ta đi tới bóng đêm khác.
Ta
làm đúng và nói đúng, nhưng ta lại bị nhiều
người chỉ trích mỗi ngày, và như vậy mỗi ngày đi
qua đời ta là mỗi ngày đưa ta từ bóng đêm bước
ra ánh sáng và từ ánh sáng này, ta bước tới ánh
sáng khác.
Chân lý không
thuộc về sự khen ngợi hay chỉ trích, mà thuộc về
ở nơi người nào thấy và biết đúng, nghe và cảm
nhận đúng, sống đúng, nói và làm đúng.
Lằn mức giữa đúng
và sai thật vô cùng vi tế và thẳm sâu, nên có
những suy nghĩ, có những việc làm của ta, ở độ
tuổi nầy thì đúng, mà bước qua độ tuổi khác lại
là sai; ở buổi sáng thì đúng, mà ở buổi chiều
thì sai; ở phút trước thì đúng, mà ở phút sau
thì sai; đối với hoàn cảnh nầy thì đúng, nhưng ở
hoàn cảnh khác thì sai; đối với người nầy thì
đúng, mà đối với người khác thì sai, và cùng một
vấn đề, mà ta nhìn nó từ góc độ nầy, thì nó đúng,
nhưng ta nhìn nó với một góc độ khác thì sai.
Nên, đúng và sai
là tùy theo mức độ hiểu biết của ta, liên hệ đến
ô nhiễm hay thanh tịnh, sâu hay cạn, rộng hay
hẹp của tâm ta.
Hễ tâm ta càng ít
ô nhiễm và càng ít bị xáo động, thì cái biết của
ta đi dần tới với cái đúng và ta có thể thường
trú ở trong cái đúng. Hễ tâm ta bị ô nhiễm và
xáo động, thì cái biết của ta càng lúc càng đi
dần tới với cái sai lầm và ta có thể cộng trú
thường trực với cái sai lầm ấy.
Ta thấy đúng và
biết đúng đối với mọi sự hiện hữu, là do tâm ta
yên lắng, không bị xáo động bởi các vọng tưởng,
hoàn toàn không bị lay động và thụ động bởi các
ngã tưởng và các dục. Ta sống với tâm như vậy,
thì lúc nào và ở đâu, ta cũng không bị hoàn cảnh
sai sử và không bị các hình tướng đánh lừa. Ta
nghe với tâm yên lắng, không bị xáo động bởi các
tưởng, thì ở đâu và lúc nào, ta cũng có sự tự do
đối với cái nghe và ta không bị mọi ngôn ngữ và
âm thanh đánh lừa. Ta cảm nhận từ mọi sự xúc
chạm với tâm yên lắng và không bị xáo động đối
với các vọng tưởng, thì sự cảm nhận của ta là sự
cảm nhận đúng, nên lúc nào và ở đâu, ta cũng
không bị các cảm giác và tri giác đánh lừa.
Ta nuôi dưỡng đời
sống bằng tâm yên lắng và không bị xáo động, thì
lúc nào và ở đâu, ta cũng có tự chủ, không bị
các loại ăn mặc và các thực phẩm ăn uống đánh
lừa. Ta nuôi dưỡng đời sống bằng tâm chân thực,
bằng sự hiểu biết sáng trong, bằng những hành
động và những lời nói đúng đắn, thì lúc nào và ở
đâu, ta cũng có đảm lực để sống, ta không bị
thời gian khuất lấp, không bị những sự sợ hãi
chi phối và không bị những sự hư dối đánh lừa.
Ta làm đúng, thì
nhân quả đến với ta đúng như những gì ta đã làm.
Ta làm sai, thì nhân quả cũng đến với ta đúng
như những gì ta đã làm sai.
Ta muốn ăn cam,
ta trồng cam, hội đủ nhân duyên, cam sẽ cho ta
trái ngọt. Ta muốn ăn cam mà gieo hạt quýt, hội
đủ nhân duyên, quýt sẽ ra trái cho ta mà không
phải là cam.
Như vậy, ta thấy
đúng, biết đúng và làm đúng, thì nhân quả đúng
tự đến với ta. Ta thấy biết sai và làm sai, thì
nhân quả đúng như với cái sai cũng tự đến với
chúng ta.
Ta muốn ăn cam mà
lại trồng quýt và chăm sóc quýt, hội đủ nhân
duyên, thì ta chỉ có thành quả của quýt mà không
phải là thành quả của cam, như vậy ta bị rơi vào
tình trạng khổ đau là do ta mơ ước mà không
thành.
Mơ ước không
thành là do tâm ta, mà không phải do nhân quả
hay do cuộc đời. Cuộc đời của ta chính là tâm ta
và nhân duyên, nhân quả của cuộc đời ta là tùy
thuộc vào tâm ta mà biểu hiện. Không có nhân
duyên và nhân quả nào tách rời khỏi tâm ta mà
hình thành và biểu hiện cả. Tâm ta chính là
nguồn gốc cho nhân duyên, nhân quả của cuộc đời
ta hình thành và biểu hiện.
Do ta không nhận
biết cụ thể và chính xác nhân duyên, nhân quả
giữa những hạt giống cam và quýt; do ta không
biết phương pháp để chăm sóc; và do ta không
biết thời vụ và chất đất để gieo trồng, nên ta
mong muốn một đường, mà kết quả đến với ta một
nẻo.
Không có nhân
duyên, nhân quả nào, khi ta gieo hạt giống cam
mà quả lại cho ta là quýt và cũng không có nhân
duyên, nhân quả nào, ta gieo hạt giống quýt mà
quả lại cho ta là cam.
Cũng vậy, không
có thành quả của an lạc và hạnh phúc nào đến với
người tâm nghĩ ác, miệng nói ác, thân làm ác. Và
cũng không có thành quả khổ đau và thất vọng nào
đến với người tâm nghĩ thiện, miệng nói thiện và
thân hành thiện.
Nếu vì bản thân
ta, mà nghĩ đến điều thiện, miệng nói điều thiện
và nỗ lực làm việc thiện, thì thiện ấy chưa phải
là thiện của thiện, nên an lạc đến với ta rất ít,
mà khổ đau và thất vọng đến với ta rất nhiều. Vì
vậy, ta không ngạc nhiên gì, ở giữa đời đã có
nhiều người tự cho mình là hành thiện, nhưng
trong đời sống của họ chỉ sinh ra những trái
đắng và khổ đau.
Nếu không vì bản
thân ta mà tâm nghĩ đến điều thiện, miệng nói
điều thiện và nỗ lực làm thiện mỗi ngày, thì
thiện ấy mới đích thực là thiện. Thiện ấy là
điểm để cho niềm tin và an lạc trong tâm ta phát
sinh và nhân duyên, nhân quả tốt đẹp hình thành
trong đời sống của ta.
Một người biết
sống yêu thương và tử tế với chính mình, người
ấy không phải chỉ biết khắc phục hậu quả khổ đau,
mà còn phải biết cách lấy những hạt giống khổ
đau ra khỏi tâm thức của chính họ, khiến cho mọi
nhân duyên, nhân quả khổ đau không còn có điều
kiện sinh khởi ở trong đời sống của họ nữa. Và
một người thông minh, giàu lòng nhân ái, người
ấy không phải chỉ biết giúp người khác khắc phục
hậu quả khổ đau, mà còn phải biết cách giúp cho
người khác, thoát ra khỏi những hạt giống khổ
đau ở nơi tâm thức của chính họ nữa.
Khổ đau hay hạnh
phúc đến với chúng ta là từ nơi tâm thức của mỗi
chúng ta. Nên, mỗi khi đối diện với khổ đau hay
hạnh phúc là ta có cơ hội để tiếp xúc với những
hạt giống thiện, ác ở nơi tâm ta. Tiếp xúc với
những hạt giống bất thiện ở nơi tâm ta, không
phải để đối phó, mà để nhận diện, ôm ấp và
chuyển hóa, khiến chúng đi về theo hướng hiền
thiện. Và tiếp xúc với những hạt giống thiện ở
nơi tâm ta không phải để tự mãn, mà để tiếp tục
nuôi dưỡng và thăng hoa chúng đến chỗ thuần
thiện.
Tiếp xúc và làm
chủ tâm ta mỗi ngày, điều ấy không phải là dễ,
tại sao? Vì tâm ta không có hình tướng. Nó vĩ
đại thì trong thế gian nầy không có gì vĩ đại
cho bằng; nó tinh vi, thì ở trong thế gian nầy,
không có cái gì tinh vi cho bằng; nó bén nhạy và
linh hoạt, thì ở trong thế gian nầy không có cái
gì bén nhạy và linh hoạt cho bằng; nó độc ác thì
ở thế gian nầy không có cái gì độc ác cho bằng;
nó thánh thiện thì ở trong thế gian nầy không có
cái gì thánh thiện cho bằng.
Vì vậy, tiếp xúc
và làm chủ tâm là cả một công trình tu luyện
liên tục và miên mật.
Và cũng vì vậy,
ai tiếp xúc và làm chủ được tâm, người ấy mới có
khả năng làm chủ được nhân duyên, nhân quả của
đời mình, làm chủ được sự sống chết và tự tại
giữa muôn ngàn diệt sinh, ảo hóa của vạn duyên
và vạn hữu.
Nếu ta không làm
chủ được tâm ta, thì ta sống với ai, ta cũng sẽ
buồn chán, sống với xứ sở nào ta cũng sẽ thất
vọng. Và nếu ta làm chủ được tâm ta, thì ta sẽ
làm chủ được vạn duyên trong đời sống của ta,
nên sống với ai ta cũng vui. Ta sống với thiện
hữu tri thức ta vui đã đành, mà sống với ác tri
thức cũng không làm cho niềm vui của ta bị suy
giảm. Sống với thiện tri thức ta cũng có điều
kiện để học hỏi và thăng hoa, mà sống với ác tri
thức ta cũng có điều kiện để nhìn lại mình, mà
phòng hộ và chuyển hóa. Sống trong thuận cảnh,
ta vui đã đành mà sống trong nghịch cảnh, niềm
vui của ta cũng không hề bị tổn giảm. Sống trong
thuận cảnh, ta cũng có điều kiện để thăng hoa,
mà sống trong nghịch cảnh, ta cũng có điều kiện
để tôi luyện và phát huy nội lực.
Nghiệm
cho cùng, sống giữa đời không có ai tồn tại
trong thuận cảnh đơn thuần và cũng không có một
ai tồn tại đơn thuần giữa nghịch cảnh. Nghịch và
thuận là hai mặt tương sinh trong đời sống của
mỗi chúng ta. Cũng như hai cánh tay phải và trái
là hai khía cạnh của một thân thể lành mạnh,
linh hoạt và tháo vát. Một thân thể lành mạnh,
linh hoạt và tháo vát không bao giờ chỉ biết
hoạt động một tay hay một chân.
Trong đời sống
hàng ngày của chúng ta, ta thuận với cái nầy,
thì ta nghịch với cái khác và ta nghịch với cái
nầy, thì ta thuận với cái khác.
Ta chỉ có hạnh
phúc và có khả năng hướng thượng, khi ta nhận ra
được sự thật của lẽ thuận nghịch ấy trong đời
sống của ta và chung quanh ta. Ta phải biết tác
dụng thực tế của hai mặt thuận nghịch, ngay
trong đời sống của mỗi chúng ta. Và ta phải biết
làm chủ tâm ta ngay trong cái lẽ thuận nghịch ấy
của cuộc sống.
Ta cần nhìn thật
trầm tĩnh và sâu sắc để thấy rằng, ở trong đời
có những cái thuận với ta cũng có khi giúp ta,
nhưng cũng có khi hại ta và có những cái nghịch
với ta cũng có khi là hại ta, nhưng cũng có khi
giúp ta rất nhiều.
Nên, vấn đề an
lạc và hạnh phúc của ta không phải là ở nơi sự
từ chối nghịch chạy theo thuận, mà ta phải biết
làm chủ tâm ta giữa hai lẽ thuận và nghịch ấy
của cuộc sống. Ta cần phải nhìn sâu để biết rằng,
chân lý của cuộc sống là bao gồm cả hai lẽ thuận
và nghịch, nếu từ chối thuận hay từ chối nghịch,
thì ta không có lý do gì để hiện hữu.
Cũng như ánh sáng
là chân lý và tác dụng của ngọn đèn, nếu ngọn
đèn chỉ chấp nhận điện tử dương, mà từ chối điện
tử âm hoặc chỉ chấp nhận điện tử âm mà không
chấp nhận điện tử dương, thì ánh sáng và tác
dụng của ngọn đèn không bao giờ phát ra, khiến
cho sự có mặt của cây đèn trở thành vô dụng và
vô nghĩa. Ánh sáng của ngọn đèn chỉ phát ra và
có tác dụng lợi ích cho cuộc sống, khi nào bản
thân ngọn đèn có khả năng tiếp nhận và làm chủ
hai dòng âm dương, thuận nghịch đến với nó và
hoạt động trong nó.
Cũng vậy, mỗi khi
ta đã làm chủ được tâm ta, khiến tâm ta hoàn
toàn không bị chi phối bởi các vọng tưởng, thì
hai lẽ thuận nghịch trong đời sống của mỗi chúng
ta, giúp cho ta đi tới với đời sống tự do và
khiến cho ta thong dong giữa đôi dòng thuận
nghịch.
Thuận và nghịch
trong đời sống của mỗi chúng ta, chẳng khác nào
đôi cánh phải và trái của chú chim đại bàng đã
giúp cho chú bay liệng giữa bầu trời cao rộng và
tự do.
Thuận
và nghịch trong đời sống của mỗi chúng ta, cũng
phải thường trực quán chiếu như vậy, để lúc nào
và ở đâu, ta cũng làm chủ được tâm ta, để ta có
khả năng chế tác ra hạnh phúc và an lạc cho ta
và cho mọi người, khiến cho ai cũng có thể thực
hiện đời sống thong dong giữa đôi dòng thuận
nghịch.
Thích Thái Hòa


|