ĐI TỚI MỘT BÌNH
AN DƯỚI THẾ
TÂM HUY
Cách nay hơn 20
năm, qua giới thiệu của một người bạn làm ở chi
nhánh địa phương của cơ quan từ thiện Thiên Chúa
giáo Hoa Kỳ (thường gọi là hội USCC), vị linh
mục tuyên úy xã hội giáo phận Richmond (tiểu
bang Virginia) yêu cầu tôi viết một bài về Phật
giáo để đăng trên số Xuân tờ báo tiếng Việt do
ông chủ trương.
Lúc đó
sinh hoạt Phật giáo mới bắt đầu trong cộng đồng
người Việt tại địa phương nhờ nỗ lực của một
nhóm nhỏ Phật tử, trong khi Thiên Chúa giáo và
Tin Lành đã có những sinh hoạt đi vào nền nếp
quy củ từ lâu. Vì vậy tôi coi việc đáp ứng lời
yêu cầu trên như một cơ hội không thể nào bỏ qua
để giới thiệu với đồng hương là Phật giáo hiện
đang có mặt tại địa phương bên cạnh các tôn giáo
khác.
Mặc dù vào lúc đó
Phật giáo là đề tài viết lách hoàn toàn mới lạ
với tôi, tôi cũng cố gắng hoàn tất khá nhanh ba
bài viết đầu tiên về lãnh vực này, trong đó có
bài tổng kết một năm sinh hoạt Phật giáo khá dài.
Vốn không tin tưởng ở khả năng viết lách của
mình về đề tài Phật giáo, tôi chỉ hy vọng vị
linh mục sẽ chọn đăng một trong ba bài đó. Với
tôi, như thế là đủ mãn nguyện. Vượt quá sự mong
ước của tôi, cha Phạm Quang Thúy đã cho đăng
nguyên văn cả ba bài. Cho tới nay, tôi vẫn coi
đó là khích lệ lớn nhất tôi nhận được từ những
bài viết.
Thực ra, cộng
đồng Phật tử vùng Đông Nam tiểu bang Virginia đã
đón nhận được nhiều khích lệ từ những thân hữu
Thiên Chúa giáo. Năm 1985, khi một số Phật tử
trẻ vận động thành lập Ban Liên Lạc Phật Tử để
tổ chức các sinh hoạt Phật giáo có tính đại
chúng tại địa phương, những khích lệ tinh thần
đầu tiên họ nhận được đến từ vị linh mục tiên
khởi của giáo xứ Thiên Chúa giáo người Việt tại
địa phương (cha Trần Văn Huân) và những nhân sĩ
theo đạo Chúa trong Ban Chấp Hành Cộng Đồng
Người Việt. Trong buổi lễ Phật đầu tiên dành cho
cộng đồng Phật tử địa phương (lễ Vu Lan tháng 9
năm 1987), vị lãnh đạo giáo xứ Công giáo (cha
Trần Văn Tiên) và một số nhân sĩ trong giáo xứ
là những người tham dự sớm nhất. Một số thân hữu
Công giáo cũng đã góp phần công sức trong giai
đoạn đầu xây dựng chùa Giác Hoa tại Chesapeake,
khởi công từ giữa tháng 6/1990.
Chuyện một tờ báo
do một linh mục chủ trương đăng bài viết về Phật
giáo của một Phật tử không phải là điều hiếm
hoi. Trường hợp nổi bật nhất là ở Đài Loan: nhà
văn Lâm Thanh Huyền nhờ được tờ Khởi Hành, một
tạp chí Thiên Chúa giáo, đăng liên tục tập
truyện ký Phật giáo đầu tay “Như Ý Bồ Đề”, nên
khi được xuất bản thành sách, nó đạt kỷ lục tái
bản 7 lần trong vòng một tháng và in 30 lần
trong năm đầu tiên. Phạm Huê đã dịch tác phẩm
này ra tiếng Việt dưới nhan đề “Những Hạt Đậu
Biết Nhảy”, Văn Nghệ xuất bản tại California,
Hoa kỳ 1999.
Khi được Lâm
Thanh Huyền hỏi lý do tại sao ông lại cho đăng
các truyện Phật giáo trên tờ báo Thiên Chúa giáo,
vị linh mục chủ nhiệm tạp chí Khởi Hành trả lời:
Chúng tôi giảng đạo tại Trung Quốc mà nếu không
hiểu về đạo Phật, Lão, Khổng chẳng hoá ra mò mẫm
mà đi trong sương mù hay sao? Lại nữa đối với
tôi thì tôn giáo nào cũng có những điều tốt lành
và thánh thiện.
Nếu
những chuyện về Phật và Phật pháp đăng tải trên
tờ báo Thiên Chúa Giáo của chúng tôi có thể giúp
ích được cho mọi người thì đâu có hại gì cho ai.
Đừng nghĩ một cách hạn hẹp là tôi đã làm một
việc phản tuyên truyền cho Thiên Chúa giáo hay
trái với chức năng truyền đạo của tôi. Lợi
ích đầu tiên tôi nhận được là lời cám ơn của anh,
và sau đó nhiều người khác nhìn vào hình thức
của tờ báo mà cho rằng chúng tôi là những người
rộng rãi, không có tỵ hiềm về tôn giáo. Thực tế
mà nói thì mọi mưu cầu của anh hay của tôi đều
có cùng mục đích: chúng ta muốn mọi người sẽ
cùng gặp nhau ở chốn Thiên Đàng, Niết Bàn, thì
tại sao bây giờ chúng ta không hợp tác để xây
dựng con đường đi đến đó từ nơi chốn này? (Lâm
Thanh Huyền, sđd, bản dịch của Phạm Huê).

Cái khoảng cách
như huyễn như thực ngăn chia những người theo
đạo Phật và đạo Chúa chẳng cần phải đợi tới khi
sư ông Nhất Hạnh viết hai cuốn Living Buddha,
Living Christ và Going Home, Buddha and Jesus As
Brothers vào thập niên 1990 mới được hoá giải.
Hơn 22 thế kỷ trước, vua Asoka đã chỉ dụ cho các
phái đoàn tăng lữ Phật giáo Ấn Độ đầu tiên được
ông gởi đi truyền giáo ở các nước ngoài: Bất kỳ
ai tôn trọng tôn giáo của mình nhưng lại chỉ
trích tôn giáo khác, nghĩ rằng “tôi sẽ làm rạng
rỡ tôn giáo của tôi”. Nhưng thật là trái ngược,
khi làm như vậy người đó đã làm tổn thương tôn
giáo của mình một cách nghiêm trọng (a)
Trong quan hệ
giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo trên đất nước
ta, không thiếu những trường hợp thân thiện và
hợp tác. Sau đây chỉ là một ghi nhận khái quát,
cần được bổ sung rất nhiều.
Khi các đức cha
Francois Pallu và Lambert de la Motte thụ phong
giám mục tiên khởi ở Đàng Ngoài và Đàng Trong,
ngày 10/11/1659, Thánh Bộ Truyền Giáo Vatican đã
ban huấn dụ nhắn nhủ: các vị đừng tìm cách, tìm
lý lẽ để thuyết phục các dân tộc thay đổi nghi
thức, tập tục và phong hoá của họ, trừ khi tất
cả các điều đó rõ ràng là trái ngược với tôn
giáo và luân lý.
Trương Vĩnh Ký
(1837-1898) học giả và nhà báo quốc ngữ tiền
phong Thiên Chúa giáo nổi tiếng vào thời Pháp
xâm chiếm Nam kỳ, đã nêu lên quan điểm: người An
Nam đâu có thù ghét đạo Gia Tô. Họ chỉ bất bình
và phản đối những hành vi quá mức của một số
linh mục dựa vào sự che chở của quân đội và
chánh quyền Pháp Lang Xa để tiếp tục thi hành
những điều bạo ngược. Bởi vì, xét cho kỹ, Gia Tô
giáo và Phật giáo chẳng khác gì nhau (Cao Thế
Dung, Trương Vĩnh Ký – Thân thế và hành trạng,
Nguyệt san Dân Chúa 1998)
Năm 1898 nhà sư
Vương Quốc Chính lãnh đạo Hội Thượng Chí khởi
nghĩa chống Pháp. Phong trào này lan rộng từ
Nghệ An tới Bắc Ninh đã quy tụ được nhiều Tăng
sĩ, hàng vạn Phật tử và một số không nhỏ con
chiên đạo Chúa (b).
Chí sĩ Phan Bội
Châu (1867-1940) trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của ông đã lưu tâm đặc biệt tới sự đoàn kết
giữa Phật tử và con chiên của Chúa. Trong Phan
Bội Châu Niên Biểu, ông viết: …Đoạn tôi từ biệt
Tiểu La (nhà cách mạng Nguyễn Thành), lại chạy
khắp nơi các địa phương thâm kết giáo đồ từ
Quảng Bình đi Bắc. Cụ Thông ở Mộ Vinh, cụ Truyền
ở Mỹ Dụ, cụ Thông ở Quỳnh Lưu, cụ Ngọc ở Ba Đồn
đều thông tình tỏ hết. Cái đám mây mù nghi ngờ
giữa Lương Giáo, quét một trận mà sạch bong,
cũng là một việc thích lắm (c) Phan Bội Châu
Niên Biểu bản dịch của Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa,
tr. 36, Sài Gòn 1971. Chữ Cụ ở đây chỉ các tu
sĩ Thiên Chúa giáo, theo cách gọi của dân chúng
thời đó. Trong giai đoạn hoạt động cách mạng
(1902-1925), cụ Phan Bội Châu đã được sự cộng
tác tích cực của linh mục Mai Lão Bạng cùng các
Hoà thượng Phi Lai Chí Thiền (từ năm 1861) ở
Thất Sơn, Châu Đốc và Thiện Quảng (1861-1911) ở
Thái Lan.
Một chí sĩ nổi
tiếng khác của phong trào Duy Tân là Phan Chu
Trinh, dù có quan điểm chính trị khác biệt với
Phan Bội Châu, cũng tích cực đóng góp nhiều nỗ
lực hòa giải mối tranh chấp xô sát giữa lương
giáo xảy ra từ thời phong trào Cần Vương (sau
1885) tại nhiều nơi trong tỉnh Quảng Nam, đặc
biệt tại các xứ đạo thuộc huyện Duy Xuyên như
Trà Kiệu, Phước Kiều.
Nhà sư Thích Mật
Thể khi biên soạn Việt Nam Phật Giáo Sử Lược năm
1942, đã bác bỏ quan điểm gây chia rẽ đạo Phật
và đạo Chúa trong lời chú ở cuối chương 9: Có
người bảo Phật giáo thời nay bị suy đồi là bởi
thế lực truyền bá của đạo Thiên Chúa. Nhưng theo
chúng tôi thì không phải; chỉ là tại nhân tâm
của thời mạt pháp mà thôi, khiến cho trong Phật
giáo thiếu những bậc tu hành chơn chánh đến nỗi
đạo pháp phải suy vi.
Năm 1958 linh mục
Trần Thái Đỉnh đã thuyết trình về đề tài Phật
giáo tại trường đại học Huế (linh mục Cao văn
Luận làm Viện trưởng). Bài thuyết trình của ông
bị một số giáo phẩm Thiên Chúa giáo tại Huế than
phiền là quảng cáo cho đạo Phật, nghe xong có
thể cảm thấy là theo đạo Phật đủ rồi, không cần
phải theo đạo khác. Bài này được đăng trên tạp
chí Đại Học của Viện đại học Huế năm 1959. Chủ
biên tạp chí này là giáo sư Nguyễn Văn Trung,
một trí thức Công giáo. Sau đó tác giả bổ sung
thêm và cho in trong sách triết học lớp đệ nhất
Đạo Đức Học của linh mục Trần Đức Huynh.
Năm 1967, khi các
đệ tử của Thầy Nhất Hạnh tìm cách xuất bản chui
tập thơ Tiếng Đập Cánh Bầy Chim Lớn, không nhà
xuất bản Phật giáo nào dám nhận in, mặc dù các
đại đức Thanh Tuệ (giám đốc nhà xuất bản An Tiêm)
và Từ Mẫn (giám đốc nhà xuất bản Lá Bối) từ lâu
có nhiều quan hệ gắn bó với Nhất Hạnh. Chính
linh mục Nguyễn Ngọc Lan đã nhận in tập thơ này
mà không đòi hỏi trước một bảo đảm thanh toán
tiền in.
Sau năm 1975 sư
cô Trí Hải lập một tịnh xá tại Hố Nai (Biên Hoà)
để thu nhận các Tăng ni không được chùa nào chứa
vì sự kiểm soát nghiêm ngặt của chính quyền cộng
sản qua chế độ hộ khẩu. Bà đã được sự giúp đỡ
ngấm ngầm của những người dân địa phương trong
một vùng đại đa số dân chúng là con chiên ngoan
đạo.
Năm 1977 khi Hoà thượng Thích Đức Nhuận thành
lập Lực Lương Dân Tộc Kháng Chiến Giải Cứu Việt
Nam, tịnh xá ở Hố Nai trở thành một cơ sở quan
trọng tiếp nhận nhiều người gia nhập, trong đó
có những người Thiên Chúa giáo (d).
Liên tục từ nhiều
năm trước ở Huế, hai nhân vật nổi tiếng về nỗ
lực tranh đấu cho tự do tôn giáo tại Việt Nam là
Thượng toạ Thích Thái Hoà và linh mục Nguyễn Văn
Lý đã là bạn thơ văn khá thân thiết. Theo cha
Tađêo Nguyễn Văn Lý: một tổ chức từ thiện Phật
giáo tại Huế do cố cư sĩ Phạm Đăng Siêu thành
lập là nhóm Hướng Thiện đã coi Tổng Giám Mục Huế
- Nguyễn Kim Điền là vị bảo trợ tinh thần. Mỗi
năm 4 lần vào dịp Giáng sinh, Tết, Phục sinh và
ngày giỗ cụ Phạm Đăng Siêu, họ đều tới đảnh lễ
Tổng Giám Mục, xin ngài cầu nguyện cho việc làm
từ thiện của họ (lời chứng của LM Tađêo Nguyễn
Văn Lý về đức TGM Nguyễn Kim Điền, Vietnam-on-line.com/anhduong
tháng 6.2005).
Linh mục Giuse
Hoàng Kim Toan thuộc nhà thờ Tân Định (Sài Gòn)
trong một bài viết đã so sánh sự tương đồng giữa
lễ Vu Lan của Phật giáo với lễ Linh Hồn của
Thiên Chúa giáo (đ).
Cố Hoà thượng
Thích Thiện Châu, trụ trì chùa Trúc Lâm Yên Tử ở
Pháp, cho rằng hình ảnh Quán Thế Âm Bồ Tát gần
gũi với hình ảnh Chúa Giê Su. Đó là hình ảnh đại
từ, đại bi, luôn luôn sẵn sàng hiện ra cứu giúp
những kẻ hoạn nạn và đã không chịu thành Phật
chừng nào tất cả chúng hữu tình chưa đạt Niết
Bàn. Do đó người tu theo đạo Phật phát triển (Đại
Thừa) nhất là tông Tịnh Độ, có thể tôn kính Chúa
Giê Su như một vị Bồ Tát (e).
Nhà văn Nguyên
Giác Phan Tấn Hải, trong tác phẩm Cậu Bé Và Hoa
Mai (Nhân Văn xuất bản, California 1986), gọi
Chúa Giê Su là Vị Phật Có Tóc giữa những vị Phật
Không Tóc. Xuất thân từ một dòng họ nhiều đời
theo Phật giáo, thuở nhỏ ông học trường Tabert
do các sư huynh dòng Lasan hướng dẫn. Lớn lên
ông là đệ tử của Thiền sư Trạm Nhiên Tịch Chiếu
(chùa Tây Tạng, Bình Dương) rồi trở thành nhà
văn Phật giáo.
Trên trang web
Người Cư Sĩ do một số đệ tử của HT Thích Thiện
Châu tại Pháp chủ trương, cách đây 2 năm đã có
một cuộc thảo luận lý thú về đề tài: mẹ Teresa
có phải là một vị Bồ tát không? Cư sĩ Lại Như
Bằng (người chủ trương trang web) và các Phật tử
tham dự cuộc thảo luận đều đồng ý ở điểm: mẹ
Teresa đích thực là một vị Bồ Tát qua những công
hạnh đã thực hiện, vì Bồ tát là trình độ chứng
ngộ, không phải là một ngạch trật giáo phẩm của
giáo hội.
Linh mục Phêrô
Phan Đình Cho, sáng lập viên Viện Triết Đạo,
trong bài diễn văn nhậm chức Khoa trưởng Phân
khoa Tư Tưởng Xã Hội Công Giáo tại đại học
Georgetown ở phía bắc tiểu bang Virginia, Hoa Kỳ,
ngày 3/3/2004: Đối thoại liên tôn là phải sống
với những người của tôn giáo khác, học hỏi về
tín ngưỡng của họ và phải chia xẻ với họ. Cần
ngồi lại với các vị lãnh đạo tôn giáo khác: một
thượng toạ, một rabbi, một guru Ấn Độ, một thầy
Thiền … cùng ăn uống, cùng sống và cùng tìm hiểu
đạo giáo của họ (g).
Linh mục Piô Ngô
Phúc Hậu, thụ phong linh mục tại Cần Thơ năm
1964, hiện nay là chánh xứ giáo phận Cái Răng (Cà
Mâu) đã kể lại một câu chuyện lý thú. Năm 1965,
ông được mời đi rửa tội cho một bà già 80 tuổi
bị liệt. Sau khi chịu phép rửa tội xong, bà cụ ngước
nhìn ông một cách thành khẩn, thưa:
Cha
ơi, tôi theo đạo Phật từ nhỏ, tôi thương đức
Phật quá! Bây giờ tôi theo Chúa, Cha cho tôi giữ
bàn thờ Phật nha! Linh mục Hậu cho biết: lúc
đó ông mới 29 tuổi đời và 1 tuổi mục tử, ông
thấy bối rối trước một yêu cầu như vậy. Bỗng ông
nhớ tới vị thầy ông, linh mục Lucia Huy đã dạy:
phải tôn trọng đạo Phật, phải kính trọng đức
Phật. Ông cho biết chính thầy Lucia Huy cũng có
một tượng Phật để trên bàn viết. Thế là cha Piô
Ngô Phúc Hậu trả lời bà lão: Chúa thì để trong
lồng kiếng, còn đức Phật là hiền nhân thì để kế
bên Chúa. Bà cứ thương đức Phật đi. Tôi cũng
thương Ngài nữa. Hôm sau ông lên toà giám mục
báo cáo sự việc. Đức giám mục bảo: Được lắm, cha
có sáng kiến hay! (h)
Nhà văn Công giáo
Hoàng Ngọc Liên gọi Thượng toạ Thích Thanh Long,
giám đốc tuyên úy Phật giáo, là “nhà sư của tôi”.
Ông kể: tại trại tù cải tạo Thanh Phong (huyện
Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá), mỗi khi cha Nghiêu (phó
giám đốc tuyên úy Công giáo) bị cán bộ cộng sản
trực trại lên án là “nề mề trong nao động, gây
ảnh hưởng xấu tới phong trào thi đua sản xuất vụ
đông-xuân” thì người tù duy nhất hăng hái bênh
vực cha Nghiêu chính là Thượng toạ Thanh Long.
Trong trại tù Thanh Phong, thượng toạ Thanh Long
được các tù cải tạo khác, kể cả các linh mục,
gọi là “bố”, còn ông gọi các linh mục là “đức
vua” (i); cả hai cách gọi sáng tạo như vậy đều
không làm hài lòng các cán bộ cai tù chút nào.
Nhà văn Đoàn Dự
cho biết: sau khi phổ biến truyện ngắn Xâu
Chuỗi Ngọc, dịch từ The Necklace của nhà văn nữ
Nhật Bản Katsura Morimura, ông chủ tịch Gia Đình
Phật Tử chùa Khải Đoan (Ban Mê Thuột) đã xin ông
cho phép in ra để phát cho Phật tử trong dịp lễ
Vu Lan và linh mục phó xứ nhà thờ Thị Nghè cũng
liên lạc với ông để được dùng nó giảng trong lễ
Misa. Tại hải ngoại, truyện ngắn Xâu Chuỗi Ngọc
được in trong tuần báo Thời Báo USA (mục Chuyện
Bên Nhà) số 14 ngày 1 tháng 4/2005, phổ biến ở
Toronto, Canada và miền Đông Hoa Kỳ.
Cũng xin giới
thiệu loạt bài đức Đạt Lai Lạt Ma trả lời các
câu vấn đạo của một số linh mục phổ biến trên
trang web VietCatholic.com cuối tháng 5/2005.
Nhà lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng từng được giải
thưởng Nobel Hoà Bình luôn luôn chủ trương một
quan điểm hoà hợp và cộng tác trong thân thiện
giữa những tôn giáo.
Không phải chỉ có
người Việt mới cảm nhận được ý nghĩa sâu sắc của
sự hoà hợp tôn giáo. Cố Hoà thượng Tuyên Hoá (Vạn
Phật Thánh Thành ở San Francisco, Hoa Kỳ), vị
pháp sư Phật giáo Trung Hoa được coi là hoằng
pháp thành công nhất tại Mỹ trong nửa thế kỷ
qua, đã tuyên bố đại ý:
Phật
giáo hoàn toàn không có tư tưởng bài xích tôn
giáo. Không cần biết quý vị có tin Phật hay
không, tôi xem quý vị như đệ tử của Phật, tuyệt
đối không xem quý vị là người ngoài Phật giáo.
Tất cả mọi người đều là một nhà, cùng chung một
gia đình, không phân biệt người này kẻ nọ (k).
Đức Đạt Lai Lạt
Ma, vị lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng, vị tu sĩ
Phật giáo có ảnh hưởng lớn nhất ở phương Tây,
thường khuyên các vị Lạt ma khi thuyết pháp ở
các quốc gia khác: đừng quá nhấn mạnh đến Phật
giáo mà chỉ nên chia xẻ kinh nghiệm sống của
mình, mục đích thuyết pháp không phải là lôi kéo
người ta bỏ niềm tin của họ mà là đóng góp vào
sự an lạc của cá nhân (l).
Năm 1999, Hội
Đồng Giáo Hoàng Về Đối Thoại Liên Tôn tổ chức
Đại Hội Liên Tôn tại La Mã với 28 nhà lãnh đạo
Phật giáo trong số 200 nhân vật từ nhiều quốc
gia tham dự. Chủ đề của đại hội là Thiên niên kỷ
thứ 3 sắp tới: Hợp tác giữa các tôn giáo khác
nhau. Đại hội công bố sứ điệp kêu gọi các cộng
đồng tôn giáo giáo dục tín đồ của mình để phát
huy niềm thông cảm, hợp tác và tương kính và
cống hiến một lối trình bày khách quan về các
tôn giác khác nhau. Nhắc lại điều này khi gởi
thư chúc mừng Phật đản năm 2001 tới các nhà lãnh
đạo Phật giáo và các Phật tử, hồng y Francis
Arinze (chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Đối
Thoại Liên Tôn) mời gọi mọi người thiện chí hợp
tác xây dựng một nền văn minh của tình thương,
theo tinh thần năm 2001 được Liên Hiệp Quốc chọn
là Năm Quốc Tế Đối Thoại Giữa Các Nền Văn Minh.
Sau hết, xin kể
một trường hợp lý thú ngay tại vùng Đông Nam
Virginia, Hoa Kỳ. Liên tiếp trong nhiều năm, vào
mỗi dịp Giáng Sinh, Adam Nguyen đều tặng mỗi học
viên của ông một chi phiếu 25 dollas với một
điều kiện dản dị: họ đem số tiền này tặng cho
một hội từ thiện do chính họ lựa chọn. Adam
Nguyen (Nguyễn Xuân Ngọc) là một Phật tử tích
cực, huấn luyện viên Yoga tại một võ đường ở
Virginia Beach. Ông biết rằng các học viên của
ông đều không phải là người Việt, do đó có thể
nghĩ rằng họ sẽ tặng các chi phiếu đó (khoảng 50
tới 80 chi phiếu mỗi năm) cho những hội từ thiện
không phải của Phật giáo.
Những thí dụ trên
hình dung một xu hướng tất yếu trong thời đại
mới về quan hệ giữa những tôn giáo lớn trong
cộng đồng nhân loại. Đạo Phật và đạo Chúa đều
đóng góp những nỗ lực chính để đào tạo những con
người chung nhau xây dựng một an lạc trần thế.
Bởi vì như nhà thần học người Đức Karl Rahner
(1904-1984) đã viết: Những tôn giáo khác với Ki
Tô giáo không chỉ hợp pháp mà còn là phương tiện
giúp người ta đón nhận ân sủng của Chúa (m).
TÂM HUY
===================
CHÚ THÍCH:
(a) Về các chỉ
dụ của vua A Dục, xin xem trang web Thư Viện Hoa
Sen (www.thuvienhoasen.org)
và Quảng Đức (www.quangduc.com).
(b) Nguyễn
Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập 3 tr. 15,
Lá Bối, Paris 1985.
(c) Phan Bội
Châu, Phan Bội Châu Niên Biểu tr. 36, Nhóm
Nghiên Cứu Sử Đia dịch và xuất bản, Sài Gòn
1971.
(d) theo Hoàng
Hải Thủy và Lý Đại Nguyên. Nên lưu ý là có một
đại lão hoà thượng Thích Đức Nhuận khác ở miền
Bắc được suy tôn làm pháp chủ Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam từ năm 1981.
(đ) theo Nguyễn
Ngọc Chấn, bản tin về chuyến hành hương mùa Vu
Lan, nhật báo Người Việt online, California ngày
1.9.2004
(e) dẫn theo
giáo sư André Bareau, bài thuyết trình tại trung
tâm Văn Hoá Tin Lành dòng Luther, Paris ngày
11.11.1984, bản dịch của Lại Như Bằng.
(g) theo bản
tin của Việt báo online (www.vietbao.com)
ngày 5 tháng 3.2004.
(h) Linh mục
Piô Ngô Phúc Hậu, Nhật Ký Truyền Giáo, tr. 37.
(i) Hoàng Ngọc
Liên, Nhà Sư Của Tôi, Việt Nam Nhật Báo,
California ngày 13 tháng 7.2000.
(k) Hoà thượng
Tuyên Hoá, Khai Thị nhân lễ Tắm Phật, Bồ Đề Hải
số 26, California tháng 5-6.1996.
(l) Tâm Hiền
Tôn Thất Chiểu, Cầu Nguyện Cho Mọi Phật Tử Chúng
Ta Có Thể Làm Sáng Toả Được Một Chút Hiền Hoà
Phật Giáo, trang nhà Người Cư Sĩ (cusi.free.fr).
(m) David
Chidestes, Christianity: A Global History,
Harper, San Francisco 2000.
Bài
báo được in lại nhiều nhất trong lịch sử báo chí
Hoa Kỳ

|