DÒNG CHẢY PHẬT
GIÁO VIỆT NAM
TRẦN TRI KHÁCH
Như một
dòng chảy liên tục trong dòng chảy lớn của lịch
sử dân tộc, kể từ khi được các tăng sĩ Ấn Độ du
nhập vào đất Việt từ thời Hùng Vương, Phật giáo
đã hội nhập vào dòng sinh mệnh của đất nước và
đóng góp những nỗ lực làm thăng hoa nếp sống
chung của dân tộc. Trên đất nước lớn lên từ
huyền thoại Tiên Rồng, Phật Giáo Việt Nam trong
suốt chiều dài lịch sử của nó đã trở thành một
lối sống gắn liền với dòng sống của dân tộc. Nó
không nổi trôi một cách thụ động theo sự thăng
trầm của mệnh nước, mà luôn luôn tích cực góp
phần vào những nỗ lực chung nhằm chận đứng sự
bập bềnh này, tạo ổn định và an lạc cho đất nước.
Tinh thần
Bồ Tát nêu trong Lục Độ Tập Kinh “Bồ tát thấy
dân kêu ca, do vậy gạt lệ xông vào nơi hà khắc
cứu dân khỏi lầm than” (a) đã được giới xuất gia
của dân Việt thực hành ngay từ thời Hai Bà Trưng
khởi nghĩa chống lại chế độ cai trị hà khắc của
Thái thú Tô Định (năm 39). Kể từ đó, xuyên suốt
trong mọi thời nhân dân lầm than vì các chế độ
cai trị hà khắc như thời nhà Hán, nhà Đông Ngô,
nhà Đường, nhà Minh, thời Pháp đô hộ… luôn luôn
có sự tham dự dưới nhiều hình thức sinh động
khác nhau của giới Tăng sĩ hoà duyên cùng Phật
tử và đồng bào các giới dấn mình vào công cuộc
vận động dành độc lập tự chủ và dân chủ tự do
cho dân tộc.
Phật giáo
Việt Nam do đó từ căn bản không phải là tiêu cực
yếm thế, mà là Phật giáo tích cực dấn thân, nhập
thế để chuyển thế. Cho nên không có gì ngạc
nhiên khi quý
Hoà thượng Huyền Quang, Quảng
Độ kiên trì trước mọi áp bức để tranh đấu bất
bạo động cho tự do tôn giáo và hạnh phúc của
nhân dân Việt Nam. Cũng không có gì đáng ngạc
nhiên khi các bậc tôn túc này được nhiều nhân sĩ
trên thế giới cảm phục về nỗ lực tranh đấu bất
bạo động cho nhân quyền và đề nghị làm ứng viên
giải Nobel Hoà Bình (HT Huyền Quang năm 1981,
HT Quảng Độ năm 2000 và 2001).
KHỞI NGUYÊN PHẬT
GIÁO VIỆT NAM
Xác định
khởi nguyên của dòng chảy Phật giáo Việt Nam là
vấn đề có thể còn gây tranh luận. Tuy nhiên
người ta không thể căn cứ vào danh hiệu “Nam
Bang Học Tổ” mà chúa Trịnh Tạc (1657-1682) và
Trịnh Sâm (1767-1782) sắc phong cho thái thú Sĩ
Nhiếp (b), hoặc các sự kiện như Tăng ni nước ta
hiện nay tự coi là truyền thừa của dòng Lâm Tế
(c), cộng với sự hiện diện của Bồ Đề Đạt Ma trên
bàn thờ Tổ ở nhiều chùa Bắc tông và nghi thức
tụng niệm mang nhiều âm hưởng Hoa văn để rồi kết
luận vội vã là Phật giáo nước ta khởi nguyên từ
Trung Quốc.
Có một số
sự kiện lịch sử đủ để xác định kết luận trên là
vội vã. Xin nêu lên 4 sự kiện tiêu biểu:
* Năm 67 Hán Minh
Đế cử một phái đoàn 18 người qua nước Đại Nhục
Chi rước tượng Phật về thờ và các vị tăng Ma
Đằng Ca Diếp, Trúc Pháp Lan qua kinh đô Lạc
Dương. Ngôi chùa đầu tiên của Trung Quốc là chùa
Bạch Mã xây năm 68 tại kinh đô Lạc Dương làm chỗ
thờ tượng Phật, chỗ trú của các vị Tăng và nơi
chứa kinh do ngựa trắng chở tới. Theo lời sớ của
Vương Độ đời Tấn ghi lại trong Cao Tăng Truyện:
từ khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, người
Hán không được phép xuất gia; nhà Ngụy (220-264)
theo pháp chế của nhà Hán cũng chưa cho dân bản
xứ xuất gia (dẫn theo Nguyễn Lang, Việt Nam Phật
Giáo Sử Luận tập 1, trang 23).
* Tại nước ta, sư
cô Thiều Hoa (3-40) xuất gia từ năm 16 tuổi tại
chùa Phúc Khánh (nay là chùa làng Hiền Quan,
tỉnh Phú Thọ). Các sư cô Phương Dung, Thục Nương
và nàng Sa (Chiêu Tâm Phúc Từ, tịch năm 40),
nàng Quốc đều xuất gia từ lâu trước khi rời chùa
dẫn dân quân tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng vào năm 39. Trong lịch sử Phật giáo các
nước, Tăng đoàn luôn luôn xuất hiện trước ni
đoàn, chưa thấy có trường hợp ngoại lệ. Cho nên
có thể giả thiết Tăng đoàn nước ta đã xuất hiện
từ trước thời Trưng Vương. Tập thơ nôm dài nhất
về lịch sử nước ta của Thiền sư Chân Nguyên
(1646-1726), Thiên Nam Ngữ Lục, có đề cập tới
chùa Trúc Viên ở núi Sài Sơn (Sơn Tây) vào thời
tể tướng Lữ Gia nhà Triệu nắm quyền (110 TTL) đã
trở nên hoang phế. Tới nhiều thế kỷ sau, Tăng
đoàn Trung Quốc mới được thành lập mà trụ cột
tiên khởi là
Thích Đạo An (314-385).
* Khi cử đại binh
xâm lăng nước ta thời nhà Hồ, vua Minh Thành Tổ
ban hành hai chỉ dụ vào tháng 4/1406 tiếp theo
là chỉ dụ năm 1407 ra lệnh cho quân binh Trung
quốc tịch thu đem về nước (và phá hủy tất cả
những gì không thể mang đi được) toàn bộ thư bản
văn tự từ sách vở cho tới văn bia. Năm 1418, vua
Minh sai hai nho gia là Hạ Thanh và Hạ Thi sang
nước ta chỉ đạo việc hủy diệt cho bằng hết các
di sản văn hoá Đại Việt còn bị quân tướng nhà
Minh bỏ sót lại. Tiếp đó, nhà Minh lập Tăng
Cương Ty lo việc đồng hoá Phật giáo nước ta theo
mẫu mực Trung quốc. Sự kiện có tính đàn áp và áp
đặt thô bạo đó chứng tỏ ảnh hưởng của di sản
Phật giáo Trung quốc đối với Phật giáo Việt Nam
trước thời Minh thuộc rất mờ nhạt.
* Năm 402 sư Huệ
Viễn (334-416) sáng lập Bạch Liên xã, cơ sở Tịnh
Độ tông đầu tiên ở Trung Quốc. Năm 425 sư Đàm
Hoằng từ miền Bắc Trung Quốc tìm tới chùa Tiêu
Sơn (Bắc Ninh) tu học pháp môn Tịnh Độ và chuyên
trì tụng kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ và
Thập Lục Quán. Để danh tiếng có thể lan tới tận
miền Bắc Trung Quốc, trào lưu Tịnh Độ tại nước
ta đã phải hình thành và phát triển từ nhiều
thập kỷ trước, nghĩa là trước khi pháp môn này
hình thành ở Trung Quốc.
Một báo cáo của
Lưu An (chết năm 122 TTL) được ghi lại trong
Tiền Hán Thư: Từ thời Tam Đại bên Tàu (gồm nhà
Hạ 2140- 1711 TTL, nhà Thương hay nhà Ân 1711-
1066 TTL và nhà Chu 1066- 256 TTL) dân Việt đã
không chịu dùng lịch pháp Trung Quốc. Lê Mạnh
Thát (sđd tr. 64) và Nhất Hạnh (Nguyễn Lang, sđd
tr. 41) đều cho rằng khi đó dân ta dùng lịch
pháp Ấn Độ (một năm có 4 mùa, 12 tháng, mỗi
tháng có 30 ngày).
Những sự
kiện trên đủ để kết luận những hạt giống Phật
giáo đầu tiên truyền đến nước ta không thể nào
từ Trung Quốc. Những hạt giống đó được truyền bá
bởi các nhà sư Ấn Độ theo các thương nhân đồng
hương của họ đến cảng Luy Lâu của nước ta có thể
từ những năm giữa thế kỷ 2 TTL.

PHÂN KỲ LỊCH SỬ
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Sử gia
Phật giáo Lê Mạnh Thát (TT Thích Trí Siêu) trong
bộ Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam đã phân chia lịch
sử Phật giáo nước ta thành 5 thời kỳ:
- Thời kỳ Phật
Giáo Quyền Năng (từ khởi nguyên tới năm 544),
tác động chính là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng (năm 39- 43). Ở thời kỳ này, đức Phật được
quan niệm như một đấng toàn năng với nhiều quyền
phép thần bí.
- Thời kỳ Phật
Giáo Vận Động Độc Lập (từ năm 544 tới 1069), tác
động chính là việc Lý Bôn khởi nghĩa thành công
và xưng đế năm 544. Các nhà sư dùng ảnh hưởng và
khả năng của mình góp phần vào các nỗ lực vận
động độc lập dân tộc.
- Thời kỳ Phật
Giáo Thế Sự (từ năm 1069- 1306), tác động bởi
việc vua Lý Thánh Tông sát nhập ba châu Địa Lý,
Ma Linh và Bố Chính vào lãnh thổ Đại Việt năm
1069. Phật giáo góp phần chủ động vào nỗ lực bảo
vệ và phát triển đất nước. Các thiền sư dù không
mặc áo thế quyền vẫn có những tham dự quan trọng
vào các quyết định trị nước.
- Thời kỳ Phật
Giáo Cư Trần Lạc Đạo (từ năm 1306- 1698), tác
động bởi việc vua Trần Nhân Tông sát nhập hai
châu Ô, Lý vào nước ta năm 1306.
- Thời kỳ Phật
Giáo Quần Chúng (từ 1698), tác động bởi việc
chúa Nguyễn Phúc Chu sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh
vào thiết lập chính quyền tại Gia Định năm 1698.
Học giả
Lê Mạnh Thát cho rằng năm biến động lớn nói trên
của lịch sử dân tộc đã tạo nên những thay đổi cơ
bản trong bản thân Phật giáo để đáp ứng được yêu
cầu của lịch sử trong từng giai đoạn liên hệ.
Theo ông, mỗi thời kỳ có một nét đặc trưng nổi
bật của nó, mà ngay cả sự thay đổi của các triều
đại và sự tồn tại của các dòng Thiền khác nhau
không có một ảnh hưởng to lớn nào. Khi phân kỳ
lịch sử Phật giáo Việt Nam như vậy, ông chú
trọng đến quá trình phát triển của dân tộc, đặc
biệt là cuộc Nam tiến.
Cách phân
kỳ trên là quan niệm riêng của Lê Mạnh Thát. Sự
xác định đặc tính riêng của mỗi thời kỳ nói trên
có những điểm cần được xét lại. Chẳng hạn quan
niệm coi Phật như một đấng toàn năng với nhiều
quyền phép huyền bí không phải chỉ có trên đất
nước ta và cũng không phải chỉ có vào thời kỳ
khởi nguyên. Theo Will Durant (Lịch Sử Văn Minh
Ấn Độ, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, trang 129,
Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ không ghi năm): vào
khoảng cuối đời của Thích Ca, tín đồ bắt đầu tôn
sùng ngài là thần. Ngày nay ở trong nước cũng
như hải ngoại, màu sắc thần thánh của Phật cũng
còn hiện diện tại không ít chùa Đại thừa.
Thế nhưng chúng
ta phải chú ý đến một sự kiện độc đáo khi Hai Bà
Trưng phất cờ tổng khởi nghĩa vào năm 39, các sư
cô Thiều Hoa, Phương Dung, Thục Nương và nàng
Quốc rời chùa mộ quân và tham gia cuộc kháng
chiến như các tướng lãnh quan trọng. Chắc chắn
các sư cô không quan niệm Phật như một vị thần
để cầu đảo mà đã nhân danh Phật giáo tham gia
tích cực vào nỗ lực vận động dành độc lập cho
dân tộc trong cuộc khởi nghĩa đầu tiên của lịch
sử Việt. Như vậy không phải đợi tới cuộc khởi
nghĩa của Lý Bí (Lý Bôn) thành công vào năm 544,
Phật Giáo nước ta mới tham gia vào nỗ lực vận
động độc lập dân tộc như Lê Mạnh Thát quan niệm.
Với định
chế chùa làng đã xuất hiện, với sự tập hợp thành
đội ngũ khá mau lẹ của dân quân đáp ứng lời kêu
gọi của các sư cô Thiều Hoa (3- 40), Phương
Dung, Thục Nương và nàng Quốc tham gia khởi
nghĩa chống lại chế độ bạo ngược của Tô Định, có
thể nói là tính quần chúng của Phật giáo đã phải
có ngay từ trước thời Hai Bà Trưng (d). Ở Trung
Hoa, theo truyền thuyết, chùa vua (chùa Bạch Mã
do Hán Minh Đế dựng năm 68) là định chế Phật
giáo đầu tiên.
Mặt khác
thời kỳ 1306- 1698 là thời kỳ đầy chiến tranh,
nhiễu nhương và khổ lụy của dân tộc, khó mà nghĩ
rằng Phật giáo Việt Nam có thể “cư trần lạc đạo”
trong tình huống như vậy. Nạn đói trầm trọng xảy
ra vào các năm 1321, 1344, 1357, 1392 dưới thời
các vua cuối nhà Trần. Thêm vào đó, loạn lạc
liên miên do các cuộc khởi loạn của nông dân như
Ngô Bệ ở Hải Dương (kéo dài từ 1344 tới 1360),
Trần Tề ở Bắc Giang (1354), Nguyễn Bổ ở Lạng
Giang (1379), Nguyễn Thanh và Nguyễn Kỵ ở Thanh
Hoá (1389) và sư Phạm Sư Ôn ở Sơn Tây.(1389).
Ngoài ra từ năm
1361 quân Chiêm Thành dưới sự lãnh đạo của Chế
Bồng Nga liên tiếp tấn công nước ta. Năm 1371 và
1378, Chế Bồng Nga đã vào tận Thăng Long đốt phá
và bắt dân mang đi. Chưa hết, kể từ năm 1387 khi
Hồ Quý Ly được tham dự vào những quyết định quan
trọng của triều đình nhà Trần thì Thiền phái
Trúc Lâm (do vua Trần Nhân Tông sáng lập) khó mà
được họ Hồ để yên cho “cư trần lạc đạo”. Nhất là
sau khi xảy ra vụ Hội Thề Lũng Sơn (Kỷ Mão 1399)
do Thượng tướng Trần Khát Chân triệu tập để diệt
Hồ Quý Ly, âm mưu bị bại lộ, 370 tôn thất nhà
Trần và các tùy tướng bị họ Hồ giết tại chân núi
Đốn Sơn, Thanh Hoá.
Tiếp theo, vào
giai đoạn 1407- 1428 dưới ách đô hộ của nhà
Minh, vua Minh Thành Tổ ban chỉ dụ cho tướng Chu
Năng (tháng 4/1406) phải phá hủy tất cả các sách
vở bia ký tại những vùng đã chiếm đóng không
được bỏ sót một chữ, một mảnh nào. Lệnh này được
Minh Thành Tổ nhắc lại một cách nghiêm ngặt hơn
vào đầu năm 1407 (Nguyễn Huệ Chi phát hiện ra
những chỉ dụ này và công bố trong Thơ Văn Lý
Trần tập 1, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội
1977). Năm 1418 nhà Minh sai hai nho gia Hạ
Thanh và Hạ Thi sang nước ta đặc trách việc tiêu
hủy hết các di sản văn hoá Đại Viêt mà bọn quan
quân Minh trước đây còn để sót lại. Sau đó, nhà
Minh cho lập Tăng Cương Ty để đồng hoá Phật giáo
nước ta theo khuôn mẫu Trung Quốc.
Ngay cả sau khi
Lê Lợi chiến thắng quân Minh, lập ra nhà Hậu Lê,
Phật giáo nước ta cũng chưa thể coi là đã có đủ
duyên để “cư trần lạc đạo”. Cái chết của quan Tư
đồ Trần Nguyên Hãn (tháng 2/1429), cái án tru di
tam tộc đặt lên dòng họ Nguyễn Trãi năm 1442 có
nghĩa là các vua đầu nhà Hậu Lê và những cận
thần của họ không ưa gì hậu duệ của nhà Trần. Và
dòng Thiền Trúc Lâm dưới mắt họ chỉ là cánh tay
nối dài của họ Trần. Cho nên ngay sau khi lên
ngôi, tháng 10 năm Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ
ra lệnh cho tất cả Tăng sĩ Phật giáo và đạo sĩ
Lão giáo phải trình diện khảo thí. Ai không thi
đậu bị bắt buộc phải hoàn tục. Tình trạng không
thuận lợi cho Phật giáo kéo dài cho tới hơn 60
năm sau. Lương Thế Vinh, đỗ trạng nguyên khoa
1463, có chân trong hội Tao Đàn do vua Lê Thánh
Tông sáng lập mà vẫn không được ghi tên trên
văn miếu vì tội là nhà nho mà “sáng tác kinh
Phật” (e). Vị vua đầu tiên của triều Hậu Lê
hướng về đạo Phật là Lê Hiến Tông (1497- 1504).
Nhưng sau thời đại ngắn ngủi của ông, nhà Hậu Lê
bắt đầu suy thoái.
Từ năm 1532 ở
Đàng Ngoài chiến tranh giữa nhà Mạc và vua Lê do
Nguyễn Kim rồi Trịnh Kiểm và hậu duệ của ông phò
tá kéo dài cho tới năm 1667 mới chấm dứt sau khi
tướng Trịnh là Đinh Văn Tả đánh chiếm được Cao
Bằng. Mặt khác trong khoảng 45 năm từ 1627 tới
1672, chúa Trịnh kéo đại quân vào Đàng Trong tấn
công chúa Nguyễn 7 lần.
Nếu Phật giáo
nước ta có được “cư trần lạc đạo” trong thời kỳ
1306-1698 thì đó chỉ là hai giai đoạn ngắn ngủi:
+ 1306-1330, thời
kỳ rực rỡ nhất của thiền phái Trúc Lâm do Thái
thượng hoàng Trần Nhân Tông sáng lập (và 3 vị tổ
Điều Ngự Giác Hoàng, Pháp Loa và Huyền Quang
lãnh đạo).
+1527-1540 khi
đất nước còn dưới sự lãnh đạo của Mạc Đăng Dung
với tư cách vua hoặc Thái thượng hoàng
(1530-1541), dân chúng an lạc, Tam giáo (Phật-Lão-Nho)
hoà đồng, hoàng tộc nhà Mạc tích cực hỗ trợ các
hoạt động tôn giáo.
Dưới thời chúa
Nguyễn và các vua đầu triều Nguyễn, với định chế
chùa chúa, chùa vua xuất hiện, giới Tăng lữ chịu
sự chi phối khá chặt chẽ của nhà cầm quyền. Đặc
biệt là vị trụ trì các chùa lớn đều là những
Tăng cang do triều đình bổ nhiệm qua sắc chỉ của
vua. Tính cách quần chúng của Phật giáo nước ta
do đó chưa có gì rõ rệt trong suốt thế kỷ 18.
Có lẽ phải đợi
tới năm 1849, khi Phật Thầy Tây An (Đoàn Văn
Huyên) khai sáng giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương tại
Long Xuyên, quần chúng mới thực sự là đối tượng
chính của việc truyền bá Phật pháp. Rõ rệt hơn
vào cuối thập niên 1920, khi phong trào chấn
hưng Phật giáo khởi động, giới cư sĩ bắt đầu góp
phần tích cực vào việc hộ pháp và hoằng pháp,
tương quan giữa quần chúng và Phật giáo mới trở
thành trong sáng, lành mạnh, tích cực.
Vì những biến cố
khơi mở mỗi thời kỳ của Phật giáo theo cách phân
kỳ của Lê Mạnh Thát đều là những quyết định của
nhà cầm quyền, cho nên trình bày lịch sử Phật
giáo Việt Nam theo diễn biến của các triều đại
có lẽ là điều hợp lý hơn. Đây cũng là cách phân
kỳ của hầu hết các cuốn sử Phật giáo Việt Nam
bằng quốc ngữ, khởi đầu từ cuốn Việt Nam Phật
Giáo Sử Lược của Thích Mật Thể ( nxb Tân Việt,
Hà Nội 1943). Tuy nhiên trong giai đoạn đầu của
lịch sử Phật giáo Việt Nam trước khi đất nước có
các triều đại với chính quyền ổn định, chúng tôi
đề nghị phân giai đoạn này làm hai thời kỳ:
- Thời Kỳ Khởi
Nguyên: từ lúc đạo Phật bắt đầu được các Tăng sĩ
Ấn Độ du nhập vào nước ta khoảng thế kỷ II TTL
cho tới thời đại Trưng Vương. Biến cố năm 43 (tướng
nhà Hán là Mã Viện tiêu diệt được chính quyền
Trưng Vương) có một ý nghĩa lịch sử đặc biệt.
Cuộc khởi nghĩa Trưng Vương do giới quý tộc thời
đại Hùng Vương lãnh đạo (Lạc hầu, Lạc tướng mà
biểu trưng oai quyền là trống đồng) với sự tham
dự của hàng trăm hào kiệt Việt tộc, trong đó có
ít nhất là 4 ni cô (Thiều Hoa, Phương Dung, Thục
Nương và nàng Quốc). Sau khi tiêu diệt Trưng
Vương, Mã Viện cho tịch thu toàn bộ các trống
đồng (để đúc thành ngựa) và đày các thủ lãnh quý
tộc Văn Lang còn sống sót (y gọi là cừ soái) vào
vùng đất Giang Hoài, thay đổi luật lệ Văn Lang
theo đúng luật Hán. Để chống lại nỗ lực đồng hoá
một cách thô bạo của nhà Hán, Phật giáo Việt Nam
dứt khoát bản địa hoá giáo lý, bản địa hoá tư
tưởng, gởi gắm một số yếu tố Việt Nam vào kinh
điển Phật giáo (theo Lê Mạnh Thát, sđđ tr. 151).
- Thời Kỳ Xây
Dựng Bước Đầu: Từ năm 43 đến năm 968, loạn 12 sứ
quân chấm dứt, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi lấy hiệu là
Đinh Tiên Hoàng lập ra nhà Đinh. Năm 969, Đinh
Tiên Hoàng phong cho sư Ngô Chân Lưu (930-1011)
làm Tăng thống và ni sư Trương Ma làm Tăng lục
phụ trách sử quan, giáo hội Phật giáo nước ta
được thành lập và các nhà sư bắt đầu được các
vương triều tham vấn về những quốc sự trọng đại.
Thời kỳ này đã
xuất hiện những đỉnh cao của Phật học như Mâu Tử,
Khương Tăng Hội, Tỳ-ni-đa-lưu-chi và Vô Ngôn
Thông. Mâu Tử viết Lý Hoặc Luận năm 198, tác
phẩm lý luận Phật học đầu tiên bằng Hán văn từng
được coi là sách gối đầu giường của giới học
Phật Trung Quốc và Nhật Bản thời đó. Khương Tăng
Hội xuất gia và tu học ở Giao Châu rồi qua Trung
Quốc năm 247 khơi mở và làm hưng thịnh Phật pháp
ở Đông Ngô. Pháp môn Tịnh Độ của chùa Tiêu Sơn (Bắc
Ninh) vang động tới miền bắc Trung Quốc từ đầu
thế kỷ V. Tỳ-ni-đa-lưu-chi từ Trung Quốc tới
chùa Dâu (chùa PhápVân, Bắc Ninh) khai mở dòng
thiền Pháp Vân năm 580. Vô Ngôn Thông cũng từ
Trung Quốc tới chùa Kiến Sơ năm 820 lập phái
Thiền Vô Ngôn Thông.
Chấp nhận sự phân
kỳ Phật giáo Việt Nam theo diễn biến của lịch sử
dân tộc là chấp nhận một sự thực lịch sử: Phật
giáo Việt Nam luôn luôn ở trong dân tộc chứ
không bao giờ ở trên hoặc ở ngoài dân tộc. Kinh
nghiệm 20 thế kỷ vừa qua cho thấy diễn biến của
lịch sử đất nước qua chính sách của mỗi triều
đại định hướng đi của Phật giáo Việt Nam, cho dù
hướng đi đó có thể thuận hay nghịch với nhà cầm
quyền hoặc tùy duyên uyển chuyển.
Do phản ứng để
tồn tại và phát triển trước sự thay đổi hoàn
cảnh chính trị và xã hội của đất nước trên dòng
lịch sử, Phật giáo Việt Nam trải qua nhiều giai
đoạn. Nhưng sự chuyển tiếp từ giai đoạn trước
qua giai đoạn sau không giống như sự lật qua một
trang mới hay một bước ngoặt dứt khoát với quá
khứ, mà có tính cách giao thừa – giai đoạn
trước chuyển giao và giai đoạn sau thừa tiếp.
Tựa như những khúc sông của một dòng sông; sông
vẫn chảy một dòng xuôi từ đầu nguồn ra cuối bãi
cho dù hình dạng lòng sông có thể thay đổi tùy
theo địa hình địa vật.

NHỮNG TÍNH CĂN
BẢN CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Việc xác định các
tính căn bản của Phật giáo Việt Nam do đó trở
thành quan trọng. Một cách khái quát, Phật giáo
Việt Nam có những tính căn bản sau: Tính dung
hợp, tính dân tộc, tính dấn thân và tính khai
phóng.
* Tính Dung
Hợp:
Phật
giáo không đi theo các chiến thuyền và đại pháo
để hoằng pháp, cho nên để tồn tại trên vùng đất
mới, Phật giáo phải thân thiện với nền tín
ngưỡng bản địa đã bám rễ trong quần chúng từ lâu.
Những phái đoàn truyền giáo Ấn Độ đầu tiên do
vua Asoka Moriya (A Dục) phái đi tới các nước
khác vào thế kỷ 3 BC đã nhận được chỉ dụ rõ ràng
của nhà vua: Bất kỳ ai tôn trọng tôn giáo của
mình nhưng lại chỉ trích tôn giáo khác, nghĩ
rằng “tôi sẽ làm rạng rỡ tôn giáo của tôi”;
nhưng thật là trái ngược, khi làm như vậy người
đó đã làm thương tổn tôn giáo của mình một cách
nghiêm trọng.
Các Tăng
sĩ Phật giáo người Ấn đi theo các thương thuyền
tới thủ phủ Luy Lâu của nước Văn Lang vào cuối
thời Hùng Vương hẳn nhiên đã phải tâm niệm chỉ
dụ trên của vua A Dục. Cho nên mới có hiện tượng
các vị thần của tín ngưỡng nông nghiệp nước ta
là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện cùng
Phật Mẫu Man Nương trở thành các vị Phật, được
thờ tại các chùa Tứ Pháp từ thời thái thú Sĩ
Nhiếp (185- 226) cho tới ngày nay. Hiện tượng
thờ Mẫu tại các chùa Huế cho tới nay cũng là một
biểu hiện của sự dung hợp Phật giáo Việt Nam với
tín ngưỡng dân gian.
Khi đã
nói tới dung hợp, đạo Phật Việt Nam trên tổng
thể tất nhiên là một hoà hợp Thiền Tịnh Mật, cho
dù các Tăng ni hiện nay tự coi mình là truyền
thừa của dòng Thiền Lâm Tế. Ngay từ thời Lý
Thánh Tông, với sự thành lập dòng Thiền Thảo
Đường (tổng hợp dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi và
Vô Ngôn Thông mà Thiền sư Thảo Đường là quốc sư
và nhà vua là đệ tử chân truyền đời thứ nhất)
thì trào lưu Tịnh Độ cũng phát triển mạnh mẽ ở
nước ta. Qua thời nhà Trần, Tịnh độ được giải
thích theo cái nhìn của Thiền qua các tác phẩm
của Trần Thái Tông (1218-1277), Tuệ Trung Thượng
Sĩ (1230- 1291) và Trần Nhân Tông (1258-1308).
Cho tới năm 2002, thiền sư Nhất Hạnh cũng chủ
trương phối hợp Tịnh Độ và Thiền quán theo tinh
thần tông phái Trúc Lâm (ông dẫn giải điều này
trong cuốn Thiết Lập Tịnh Độ - Thiền Giải Kinh A
Di Đà).
Với Mật tông, dù
vua Trần Nhân Tông sáng lập Thiền phái Trúc Lâm
vào năm 1299 thì các nhà sư Tây Tạng vẫn được tự
do hoạt động ở Thăng Long. Tăng sĩ Tây Tạng
Du-chi-bà-lam khi qua Đại Việt lần thứ hai năm
1311, dẫn theo con gái là Đa-la-thanh. Cô này
được vua Trần Anh Tông tuyển vào cung làm phi
ngay năm 1311. Pháp Loa, tổ thứ hai của Thiền
phái Trúc Lâm thường làm lễ quán đảnh và tổ chức
trai đàn chẩn tế với những ấn quyết và thần chú
là những nghi thức của Mật tông.
Mặt khác, ngay
sau khi quy y với Thiền sư Thảo Đường, vua Lý
Thánh Tông (1054- 1072) cho lập Văn Miếu ở Thăng
Long để thờ Khổng Tử và các tiên hiền của Nho
giáo. Thiền sư Thảo Đường chịu ảnh hưởng của sư
phụ ông (Thiền sư Tuyết Đậu, tác giả Bích Nham
Lục, chủ trương đưa Nho gia tới gần Phật). Có lẽ
sự dung hợp Phật-Nho-Lão rõ rệt nhất qua tuyên
bố của vua Trần Nhân Tông: giáo lý của đức Phật
ta phải nhờ Tiên Thánh mà truyền lại cho đời.
Mặc dù HT Thích Thanh Từ giải thích Tiên Thánh ở
đây là chư tổ Phật giáo nhưng có lẽ nên hiểu đó
là Lão và Nho thì hợp lý hơn (vì không thấy ở
chỗ nào khác gọi chư tổ Phật giáo là Tiên Thánh).
Ngày nay sự dung
hợp trong hành trì đã trở thành khuynh hướng khá
phổ thông trong Phật giáo thế giới. Chẳng hạn ở
Trung Quốc, theo HT Thánh Nghiêm: ngay từ cuối
đời Thanh đầu năm Dân Quốc đến nay, Phật Lão
Khổng cộng thêm Gia Tô và Hồi giáo trở thành tôn
giáo dân gian, mà người ta gọi là ngũ giáo đồng
nguyên. Lần lần Phật giáo cũng mở cửa phương
tiện để thích ứng với yêu cầu của tín ngưỡng dân
gian (bài giảng: Phật Giáo Làm Cách Nào Để Thích
Ứng Với Yêu Cầu Tín Ngưỡng Dân Gian).
Nói cho đúng,
dung hợp không chỉ là đặc tính riêng của Phật
giáo nước ta. Nó là xu hướng chung của thời đại
mà Phật giáo Việt Nam đi những bước tiền phong
từ nhiều thế kỷ trước. Thí dụ cụ thể nhất là
việc làm tượng Tam giáo tại chùa Cao Dương (Thái
Bình, năm 1578) và việc dựng ngôi chùa Tam giáo
ở Hà Tây năm 1590 dưới thờ nhà Mạc. Thí dụ độc
đáo nhất là sự thành lập đạo Cao Đài ngày
24/12/1925 tại Tây Ninh, tổng hợp
Phật-Nho-Lão-Thiên chúa giáo. Một tôn giáo có tổ
chức giáo hội chặt chẽ như Thiên Chúa giáo cũng
phải chấp nhận sự dung hợp để tồn tại qua các
diễn biến lịch sử. Giáo Hội Thiên Chúa Trung
Quốc đã công nhận việc thờ cúng tổ tiên ngay từ
đầu thế kỷ 20, nghĩa là rất lâu trước khi công
đồng Vatican II chấp nhận điều này. Cách hành
trì nghi lễ của Thiên Chúa giáo Phi Luật Tân,
Tây Ban Nha, Mễ có nhiều khác biệt do ảnh hưởng
của nếp sống tâm linh tại mỗi địa phương. Cũng
có không ít các ngôi nhà thờ Công giáo Việt Nam
được kiến trúc bề ngoài gần gũi với ngôi chùa
hơn là giống các nhà thờ La Mã.
* Tính Dân Tộc:
Khi đã dung hợp
với tín ngưỡng dân gian qua một quá trình dài
nhiều biến động của lịch sử, Phật giáo tất nhiên
mang tính dân tộc. Theo Lê Mạnh Thát (Lịch Sử
Phật Giáo Việt Nam, tập 3 tr. 70) dẫn Tứ Phần
Luật, Thập Tụng Luật và Ma Ha Tăng Kỳ Luật: có
tới ba điều luật cấm tăng sĩ can dự vào việc
binh bị cho dù đến xem quân đi ra trận. Thế
nhưng thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa năm 39- 43,
các sư cô Thiều Hoa, Phương Dung, Thục Nương và
nàng Quốc mộ quân và cầm quân chống lại quân nhà
Hán; thời Lý các Tăng quan sinh hoạt ở trong
quân; thời Trần năm 1381 vua Trần Phế Đế ra lệnh
cho thiền sư Đại Than mộ các Tăng sĩ ở miền quê,
nhất là những người không có độ điệp (một loại
giấy chứng nhận tăng sĩ), sung vào đạo quân đánh
Chiêm Thành; năm 1389 sư Phạm Sư Ôn lãnh đạo
cuộc khởi nghĩa chống lại Hồ Quý Ly. Còn phải kể
tới cuộc khởi nghĩa của sư Phạm Ngọc ở chùa Đồ
Sơn (Kiến An) và sư An Quốc chống lại ách đô hộ
của nhà Minh (1407 1428). Khi phong trào Cần
Vương nổi lên hưởng ứng lời kêu gọi năm 1885 của
Tôn Thất Thuyết, các chùa từ Bình Định tới Thanh
Nghệ Tĩnh đã trở thành các căn cứ Cần Vương. Năm
1898, sư Võ Trứ ở chùa Đá Trắng (Phú Yên) khởi
nghĩa chống Pháp được sự hưởng ứng của hầu hết
các chùa ở Phú Yên và Bình Định (sử gọi là Giặc
Thầy Chùa). Cùng năm, sư Vương Quốc Chính lãnh
đạo Hội Thượng Chí quy tụ hàng ngàn tăng sĩ và
Phật tử từ Nghệ An tới Bắc Ninh bạo động chống
Pháp. Qua thế kỷ 20, dù đã ẩn tu ở Thất Sơn như
sư Chí Thiền (1861- 1933) vẫn nhiều lần đàm đạo
quốc sự với chí sĩ Phan Bội Châu và Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để tại chùa Phi Lai ở Thất Sơn, Châu Đốc.
Hay tích cực theo một cách khác như sư Thiện
Quảng (1862- 1911) dù đã ẩn tu ở Thái Lan vẫn
quyết định vượt biên về nước vận động tài chánh
cho phong trào vận động dân tộc do chí sĩ Phan
Bội Châu chủ xướng và đã bỏ mình dưới lằn đạn
phục kích của quân Pháp ở Tây Ninh.
Đây chỉ là danh
sách còn nhiều thiếu sót, được trình bày như một
khái niệm tổng quát. Có thể nói
bất cứ
thời nào đất nước gặp khó khăn nguy biến, luôn
luôn có sự tham dự của giới Tăng sĩ nước ta,
dù khi nhiều khi ít, vào các nỗ lực vận động dân
tộc.
Các sử gia Phật
giáo quan trọng như Thích Mật Thể (Việt Nam Phật
Giáo Sử Lược), Nguyễn Lang (Việt Nam Phật Giáo
Sử Luận) và Lê Mạnh Thát (Lịch Sử Phật Giáo Việt
Nam) đều không hề phê phán những tăng sĩ trên là
giới luật không nghiêm minh, mặc dù sự tham gia
chính sự có tính bạo động này không được giới
luật công nhận. Dòng chảy nhỏ Phật giáo Việt Nam
đã chuyển mình theo hướng đi của dòng chảy lớn
dân tộc những lúc qua ghềnh, vượt thác. Cho nên,
chúng ta có thể đồng ý với sử gia Lê Mạnh Thát:
Dòng thơ thời sự nước ta bắt đầu với các thiền
sư Định Không (730-808), Pháp Thuận (916-991),
Khuông Việt (933-1011), Vạn Hạnh (?-1025).
* Tính Tích Cực,
Dấn Thân:
Những tích cực
tham gia vào nỗ lực vận động dân tộc nói trên
của giới tăng sĩ cũng là một thể hiện tính dấn
thân của Phật giáo Việt Nam. Tính tích cực, dấn
thân trở thành điều tất nhiên một khi tu hành
trong Phật giáo Việt Nam không được quan niệm là
xa lánh trần tục.
Năm 1680, vua Lê
Hy Tông nghe lời tâu của một số nho thần, ra
lệnh các nhà sư hoặc phải hoàn tục hoặc phải rời
khỏi chùa vào rừng núi tu để giữ mình cho thanh
tịnh. Đại sư Chân Dung Tông Diễn (1640-1709)(f)
nghe tin này quá đau lòng vì các nhà sư là người
chủ trì nghi thức quan hôn tang tế, thầy dạy chữ
Hán, thầy thuốc và người nuôi dạy trẻ mồ côi của
làng xã. Chùa đã trở thành cái xương sống của
sinh hoạt văn hoá và xã hội làng quê. Ông quyết
định phải cứu cho bằng được cái tính tích cực
dấn thân của Phật giáo để giữ cho đạo Phật có
thể phục vụ xã hội một cách hữu ích mà sống mãi
trong lòng dân tộc. Ông liền tới kinh đô, liều
lĩnh nghĩ ra một kế: xin yết kiến vua để dâng
lên một viên ngọc quý. Vua không muốn tiếp nên
không cho nhà sư vào hoàng cung, chỉ ban lệnh
nếu quả thật có ngọc, vua sẽ sai quan ra nhận.
Sau ba tháng chờ đợi bên ngoài hoàng cung không
được vua cho mời vào,
nhà sư
viết tờ biểu trình bày giáo lý đạo Phật đẹp đẽ
như viên ngọc quý soi sáng mười phương, xoá tan
mây mờ vô minh. Ông để tờ biểu này trong một
hộp thật đẹp, dán kín lại, trình với quan coi
thành: nếu vua không cho sư vào chầu, xin cử một
quan văn thanh liêm trung trực, trai giới ba
ngày rồi ra nhận ngọc quý. Vua chấp thuận. Trao
hộp cho quan coi thành, đại sư căn dặn không
được tự ý mở ra mà phải trình ngay tới tay vua.
Tại triều, vua sai mở hộp, chỉ thấy có tờ biểu
bèn sai đọc lên. Nghe được lời lẽ trong sáng, ý
tứ thâm sâu, vua chợt tỉnh ngộ, nhận ra sự sai
lầm của mình trong quyết định bắt các nhà sư
phải rời khỏi quần chúng mà đi ẩn tu nơi thâm
sơn cùng cốc. Vua cho mời đại sư Tông Diễn vào
triều để tham vấn đạo lý. Sáng lẽ đạo, vua cho
thâu hồi lệnh đã ban, cho phép các nhà sư được
trở lại chùa cũ tiếp tục hoằng pháp độ sanh. Để
chứng tỏ sự thành tâm sám hối, vua sai tạc tượng
Phật Thích Ca toạ trên lưng nhà vua đang quỳ mọp
xuống. Tượng gỗ cao 1.78 mét này hiện còn để
trong chánh điện chùa Hoè Nhai (19 Dốc Hàng
Than, Hà Nội). Có lẽ đây là pho tượng có ý nghĩa
độc đáo nhất không chỉ đối với Phật giáo Việt
Nam mà còn đối với Phật giáo thế giới. Trong
cuốn Thiền Tông Bản Hạnh, thiền sư Chân Nguyên
Tuệ Đăng (1647-1726) ca ngợi sự sáng suốt và
tích cực sám hối của vua Lê Hy Tông, goị nhà vua
là Hoàng Giác Lê Gia (ông vua giác ngộ nhà Lê).
Chính
do tính tích cực mà nhiều chùa Việt hiện nay ở
hải ngoại mở các lớp dạy Việt ngữ và phục hoạt
nhanh chóng tổ chức Gia Đình Phật Tử với
sinh hoạt thống nhất trong hoàn cảnh có nhiều
giáo hội khác biệt nhau. Ở trong nước, không ít
chùa trở thành nơi nuôi dạy trẻ mồ côi, trường
lớp cho các trẻ em nghèo ở vùng hẻo lánh, phòng
khám bệnh và phát thuốc miễn phí dù trong khả
năng tài chánh rất giới hạn. Từ xưa cho tới nay,
chùa Việt Nam thường không được quan niệm chỉ là
chỗ để tụng kinh, gõ mõ và lạy Phật.
* Tính Khai Phóng:
Phật giáo
Việt Nam tiếp thu có chọn lựa truyền thống văn
hoá Phật giáo Trung quốc và Ấn Độ. Một thí dụ là
sự kiện các Tăng ni nước ta mới chỉ bắt đầu mang
họ Thích từ nửa sau thế kỷ 20. Người đầu tiên
lấy họ Thích sau khi xuất gia và qua du học tại
Trung Quốc trở về là sư Thích Mật Thể
(1912-1961), tác giả cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử
Lược (Tân Việt, Hà Nội 1943). Tại Trung Quốc
người đề xướng việc lấy họ Thích cho người xuất
gia (để nêu cao tinh thần mọi người xuất gia đều
là huynh đệ) là sư Thích Đạo An (314-385), sống
trước Thích Mật Thể 16 thế kỷ.
Phật giáo
Việt Nam không chỉ tiếp thu mà còn chuyển hoá
giáo pháp của Thích Ca thành hình thức thích hợp
với quần chúng. Phật giáo Hoà Hảo là một tiếp
thu theo tinh thần khai phóng đó, với những kinh
điển được giáo chủ Huỳnh Phú Sổ chuyển hoá thành
kệ thơ là bộ Sấm Giảng, mà việc phổ biến dưới
hình thức đọc giảng ngâm có sức thu hút cao. Bộ
Sấm Giảng này có thể là một triển khai Bộ Sấm
Giảng bằng chữ Nôm của Phật Thầy Tây An (Đoàn
Văn Huyên 1807-1856) người khai lập giáo phái
Bửu Sơn Kỳ Hương, một hình thức Phật giáo có bản
sắc dân tộc sinh động trong môi trường nông dân
chất phác ít học của đồng bằng sông Cửu Long (không
lập chùa, không thờ tượng mà lập các “trại ruộng”
tạo nên các cộng đồng nông dân khai thác đất
hoang rất nhiều tại miền tây Nam Bộ. Đường hướng
này được đức Bổn Sư núi Tượng là Ngô Lợi
(1831-1890) nối tiếp với việc thành lập giáo
phái Phật Giáo Tứ Ân Hiếu Nghĩa năm 1872. Cũng
trong chiều hướng đó, Tổ sư Minh Đăng Quang
(1923-1954) khai sáng hệ phái Khất Sĩ năm
1944, đã tổng hợp các kinh điển Phật giáo Nam
tông và Bắc tông soạn thành bộ Kinh Chơn Lý bằng
văn vần.
Việc sử
dụng chữ quốc ngữ vào việc truyền bá Phật pháp
ngay từ thập niên 1920 vào buổi đầu của nền văn
chương quốc ngữ (dẫn tới việc thành lập nhà xuất
bản Thạnh Mậu năm 1927 để chuyên xuất bản sách
Phật giáo), việc đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn
đưa lễ Bông Hồng Cài Áo vào nghi thức lễ Vu lan
từ năm 1962, việc sử dụng internet từ năm 1994
qua số lượng ngày càng
đông đảo các trang web Phật Giáo của các tự
viện, tổ chức Phật giáo và các nhóm Phật tử tu
học, việc phổ biến Phật pháp qua băng audio rồi
CD và gần đây là CD-Rom, MP3, việc sử dụng Kỹ
thuật Paltalk để một vị sư có thể giảng pháp qua
âm thanh tới nhiều nơi cùng lúc trên mạng lưới
internet, việc phát triển lễ nhạc Phật giáo qua
nỗ lực của Võ Tá Hân, Bạch Tuyết… cho thấy Phật
giáo Việt Nam không cố chấp bảo thủ lệ thuộc vào
di sản Trung Quốc qua những nghi thức xưa cũ, mà
biết tận dụng những kỹ thuật có khả năng giúp
cho việc hoằng pháp đạt hiệu quả cao.
Sự kiện
trong buổi lễ Phật đản năm 1935 tổ chức tại chùa
Diệu Đế ở Huế có vua Bảo Đại tới dự, sư cô Diệu
Hương giảng kinh A Di Đà và sư cô Diệu Viên
thuyết về Phật Học Đối Với Phụ Nữ trên micro
trước hàng ngàn thính chúng, sự kiện Ni bộ của
Giáo hội Khất Sĩ Việt Nam do ni sư Huỳnh Liên
dẫn đạo, hoạt động độc lập với Tăng đoàn ngay từ
đầu thập niên 1970 cho thấy Ni giới nước ta tuy
không đóng vai trò tiền phong nhưng có những nỗ
lực theo kịp biến chuyển chung của Ni giới Phật
giáo thế giới. Cho nên không có gì ngạc nhiên
vào những năm gần đây khi Ni giới Đài Loan nêu
lên việc huỷ bỏ Bát kỉnh pháp (g), vấn đề bình
đẳng giữa nam nữ trong giới xuất gia đã được một
số ni chúng trong và ngoài nước lưu tâm đặc biệt.
Khá
nhiều các bài tham luận về vấn đề này đã được
một số ni dịch hoặc viết và phổ biến trên nhiều
trang web. Và mặc dù không được tất cả các
giáo hội Phật giáo trong nước cũng như hải ngoại
khuyến khích hay hỗ trợ, một số ni chúng Việt
Nam đã tự túc tham dự và thuyết trình trong các
Đại Hội Phụ Nữ Phật Giáo Thế Giới kể từ kỳ họp
thứ 6 vào tháng 2 năm 2000, tại vườn Lâm Tỳ Ni ở
Nepal. (Kỳ họp thứ 5 vào đầu năm 1998 tại Nam
Vang, dù ở ngay sát Việt Nam, Ni giới nước ta
vẫn không được khuyến khích tham dự).
Cũng nên
kể thêm việc đề nghị canh tân giới luật Phật
giáo do sư ông Nhất Hạnh công bố tại Đại Hàn năm
2003 như một bổ sung cho giới luật hiện hành để
giới tăng sĩ nam nữ có thể phục vụ hữu hiệu hơn
cho nhân loại và đạo pháp trong thời đại mới
(h). Việc cư sĩ Tâm Diệu đã cho phổ biến công
khai giới luật này trên trang web
www.thuvienhoasen.org cũng được xem là một
quyết định có tính khai phóng, tán đồng một cách
cụ thể quan niệm của TT Thích Phước Sơn cho rằng
giới luật Phật giáo phải là công truyền không
thể là bí truyền.
Phật giáo
Việt Nam, cũng như Phật giáo các nước khác và
cũng như các tôn giáo khác, thời nào cũng có
những mặt tiêu cực bên cạnh các mặt tích cực. Để
tồn tại được tới ngày nay, Phật giáo Việt Nam đã
vượt qua được sự kiêu mạn trong vài giai đoạn ở
một số Tăng sĩ có ưu thế với nhà cầm quyền, vượt
qua được khuynh hướng phân phái biệt lập ở một
số thời kỳ phát triển, để nhập dòng một cách
tích cực trong dòng chảy lớn của dân tộc (i).
TRẦN TRI KHÁCH
=========================
CHÚ
THÍCH:
- Lục
Độ Tập Kinh gồm 91 truyện tích, mỗi truyện đều
có trích dẫn kinh điển nói về lục độ ba la mật,
xếp thành 8 quyển. Ba quyển đầu nói về hạnh bố
thí, năm quyển sau mỗi quyển nói về một độ còn
lại (trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,
trí tuệ). Khương Tăng Hội, một nhà sư gốc Ấn
được đào tạo tại nước ta từ nhỏ vào thế kỷ 3 là
dịch giả bản kinh này. Theo Lê Mạnh Thát (LSPGVN
tập 1) Khương Tăng Hội có thể đã dịch từ bản
dịch tiếng Việt cổ của kinh này. Lê Mạnh Thát đã
dịch Lục Độ Tập Kinh và phổ biến trong Tổng Tập
Văn Học Phật Giáo Việt Nam tập 1, NXB TP/HCM
2001.
- Việt
Sử Toàn Thư, Phạm Văn Sơn, Đại Nam in lại ở Hoa
Kỳ không ghi năm, tr. 125.
- Lâm
Tế Nghĩa Huyền (?- 867 ) khai sáng dòng thiền
Lâm Tế tại Trung Quốc vào thời gian Phật giáo xứ
này bị đàn áp. Truyền thống hoằng hoá của thiền
phái Lâm Tế là sử dụng tiếng hét và gậy đập và
quán công án. Dạng nguyên thủy này ngày nay chỉ
còn được duy trì gần nguyên vẹn nơi thiền phái
Lâm Tế ở Nhật. (Chân Nguyên & Nguyễn Tường Bách,
Từ Điển Phật Học tr. 229-30, nxb Thuận Hoá, Huế
1999). Tại nước ta Thiền phái Lâm Tế phân làm 5
dòng: Tổ Đạo (còn gọi là dòng Vạn Phong), Đạo
Bổn Nguyên (còn gọi là Đạo Mẫn), Trí Huệ, Chúc
Thánh, Liễu Quán. Mỗi dòng đều có bài kệ truyền
thừa riêng. Phái Lâm Tế do thiền sư Nguyên Thiều
(người Quảng Đông) theo tàu buôn Trung Quốc tới
lập chùa Thập Tháp (Qui Nhơn) truyền pháp ở Đàng
Trong năm 1677 (có tài liệu ghi 1665). Trong 5
dòng Lâm Tế ở nước ta, Thiền sư Liễu Quán (1667-
1742) là người Việt, nổi tiếng sau Nguyên Thiều.
- Theo
các thần phả, sư cô Hoàng Thiều Hoa tu tại chùa
làng Hiền Quan năm 16 tuổi; Thục Nương trên
đường trốn tránh sự truy nã của thái thú Tô Định,
khi dừng chân tại chùa làng Tiên La đã cắt tóc
xuất gia và được dân làng mời ở lại trông coi
chùa làng. Theo truyền thuyết xã Kiêu Kỵ (Gia
Lâm, Hà Nội) nàng Quốc khi còn nhỏ có tên là bé
Nước được bà mẹ là Đào Tuyết Tĩnh gởi vào chùa
làng, nhà sư nhận và đặt tên là Quốc. Trong lực
lượng khởi nghĩa của Trưng Vương năm 40, bà phụ
trách thủy quân. Trong các nữ tướng thời Hai bà
Trưng, còn có hai Phương Dung khác. Phương Dung
cùng chồng là Đào Kỳ, cũng là một tướng lãnh
quan trọng của Hai Bà Trưng, được thờ tại làng
Cối, huyện Đông Anh, Hà Nội. Trương Phương Dung
cùng với 3 em trai được thờ tại làng Nan, huyện
Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình.
- Vụ án
Lương Thế Vinh quả là khó hiểu. Vì “kinh Phật”
được đề cập ở đây là Thập Giới Cô Hồn Quốc Ngữ
Văn, được các sử gia Phật giáo (Lê Mạnh Thát,
Nhất Hạnh, Lý Kim Hoa) cho là sáng tác của vua
Lê Thánh Tôn, người ra lệnh trừng phạt Lương Thế
Vinh vì tội “sáng tác kinh Phật”.
Đại sư
Chân Dung Tông Diễn đã được huyền thoại hoá dưới
danh hiệu Hoà thượng Cua vì có khả năng dùng
Phật lực giải nghiệp sát sanh cua cho mẹ ông.
Huyền thoại này được truyền tụng rộng rãi như
một điển tích sâu sắc trong Phật giáo miền Bắc.
Với Phật giáo Trung Hoa, khi một vị sư được giới
thiệu bằng hai tên, chẳng hạn Nam Nhạc Hoài
Nhượng, tên đầu Nam Nhạc chỉ nơi ông trụ trì là
núi Nam Nhạc, tên sau Hoài Nhượng là đạo hiệu.
Trường hợp Phật giáo Việt Nam, tên đầu Chân Dung
là pháp danh, tên sau Tông Diễn là đạo hiệu.
- Bát
kỉnh pháp là 8 điều luật đòi hỏi một vị ni phải
tuyệt đối kính trọng một vị tăng bất kể tuổi tác
và trình độ tu chứng. Sư cô Phổ Tịnh ở Canada có
lẽ phần nào muốn bác bỏ Bát kỉnh pháp khi gọi
các sư cô bằng danh hiệu đại đức hoặc đại đức ni.
Ở miền Bắc nước ta, dân chúng không phân biệt
tăng hay ni đều gọi chung là thầy, chẳng hạn
trong tác phẩm Chùa Đàn, Nguyễn Tuân gọi cô Tơ,
vị sư nữ có pháp danh Tuệ Không ở chùa Đàn là sư
thầy. Gần đây nhà văn thời đổi mới ở trong nước
là Nguyễn Khải cũng gọi vị sư nữ chùa Cốc là
thầy (truyện ngắn Ngôi Chùa Các Chị).
- Về
nguyên bản giới luật tân tu của thầy Nhất Hạnh,
xin xem phần Giới Luật, trang web:
www.thuvienhoasen.org. Quan niệm phổ biến
trong Phật giáo nước ta cho rằng giới luật là bí
truyền, nghĩa là cư sĩ và sa di không được phép
biết đến giới luật của tỳ kheo.
- Một
thí dụ là giai đoạn từ tháng 12.1963 tới tháng
4.1975 tại miền Nam với biến cố hai Viện Hoá Đạo
(Ấn Quang và Việt Nam Quốc Tự) của Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất và những hoạt động có
tính chính trị của TT Thích Trí Quang.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO:
- Lê
Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, tập 1
(1999) tập 2 (2001) tập 3 (2002), nhà xuất bản
Thành phố HCM.
-
Nguyễn Lang (một bút hiệu của Nhất Hạnh), Việt
Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 1 (1977) tập 2 (1978)
tập 3 (1985), Lá Bối, Paris (Pháp).
- Trần
Tri Khách, Niên Biểu Phật Giáo Việt Nam, bản
thảo, 2003.
-
Nguyễn Tài Thư chủ biên, Lịch Sử Phật Giáo Việt
Nam, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1991.
- Thích
Hải Ấn và Hà Xuân Liêm, Lịch Sử Phật Giáo Xứ Huế,
nhà xuất bản Thành phố HCM, 2001.
-
Nguyễn Duy Hinh, Tư Tưởng Phật Giáo Việt Nam,
nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1999.
- Đinh
Khắc Thuân, Lịch Sử Triều Mạc Qua Thư Tịch Và
Văn Bia, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 2001.
- Bùi
Thiết, Nữ Tướng Thời Hai Bà Trưng, nhà xuất bản
Thanh Niên, Hà Nội 2001.
-
Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, Lịch Sử Việt
Nam Từ Nguồn Gốc Đến Năm 1884, nhà xuất bản TP
HCM, 2000.
- Thích
Tâm Hải, Tìm Hiểu Về Trào Lưu Tịnh Độ Tại Việt
Nam, trang web
www.quangduc.com


|