NHÌN LẠI

THỜI KỲ TIỀN CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO

(từ năm 1849 đến năm 1928)

Trần Tri Khách

 

        Việc chỉnh đốn Tăng già là nhu cầu thường xuyên trong suốt lịch sử Phật giáo nước ta, thời loạn cũng như thời thịnh trị. Thời loạn thì có những thanh niên mượn chốn Thiền môn để trốn tránh việc quân và việc hành trì giới luật tại những chùa nhỏ khó có thể thực hành nghiêm chỉnh. Không kể còn có thể có những thành phần bất hảo ẩn thân trong chùa để tránh sự truy nã của triều đình. Thời thịnh trị thì thịnh quá hoá loạn, khó mà tránh khỏi cảnh lợi dụng Thiền môn để mưu cầu tư lợi hay tham vọng chính trị. Cho nên việc chấn chỉnh Phật giáo đã được thực hiện nhiều lần trong lịch sử.

Trước thế kỷ 20, chủ yếu là sự thanh lọc để loại bỏ những thành phần bất xứng trong hàng ngũ Tăng sĩ do các vương quyền thực hiện, hoặc dựa vào tờ biểu của các nho gia vốn không ưa gì Phật giáo như Đàm Dĩ Mông (năm 1209, triều Lý Cao Tông), hoặc do đề nghị của cấp lãnh đạo Giáo hội như Pháp Loa (tổ thứ hai của dòng Thiền Trúc Lâm đời nhà Trần) trong thời kỳ 1308-1311. Từ thời Lý Trần, hầu như triều đại nào trên đất nước ta cũng có ít nhất một lần thanh lọc để triều đình kiểm soát hàng ngũ Tăng già trên quy mô cả nước.

Tuy nhiên, nếu hiểu chấn hưng nghĩa là chấn chỉnh sửa sai những mặt tiêu cực và làm cho hưng thịnh những mặt tích cực thì việc chấn hưng Phật giáo tạo thành phong trào quần chúng ở nước ta chỉ xảy ra ở đầu thế kỷ 20. Có hai yếu tố đáng lưu ý:

1- Có tính cách tự phát, do giới Tăng sĩ và cư sĩ phối hợp thực hiện tại cả ba miền của đất nước để chấn chỉnh lại tình trạng suy đồi của Phật giáo trong giai đoạn đất nước mất chủ quyền vào tay người Pháp.

2- Phong trào ra đời hoà nhịp với phong trào chấn hưng Phật giáo thế giới do đại đức người Tích Lan Dharmapala khởi xướng đầu thế kỷ 20 với sự hỗ trợ tích cực của đại tá Henry Steel Olcott (người Mỹ đã vẽ kiểu lá cờ Phật giáo) và Sir Edwin Arnold (thi sĩ người Anh tác giả bài thơ The Light of Asia). Sau đó tại Trung Quốc từ năm 1912 sư Thái Hư phát động khẩu hiệu “cách mạng giáo lý, cách mạng giáo chế, cách mạng giáo hội”. Phong trào cách mạng Phật giáo tại Trung Quốc của sư Thái Hư tạo được ảnh hưởng đáng kể, tuy khá muộn màng, trong giới Tăng sĩ nước ta khiến họ dần dần chuyển động đồng bộ và chấp nhận phối hợp với giới cư sĩ tân học, tạo được hiện tượng tứ chúng đồng tu, tứ chúng hòa hợp.

Có một điều cần nói rõ: phong trào chấn hưng Phật giáo nước ta không thể được coi như một bản sao của Phật giáo Trung Quốc. Nó được thúc đẩy do ảnh hưởng của nhiều cuộc vận động cải cách mà quan trọng nhất là phong trào tân học do các nhà nho Duy Tân như Trần Quý Cáp, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu khởi xướng năm 1905-1906 tại Quảng Nam và các tỉnh nam Trung Kỳ. Chính những cuộc vận động cách mạng văn hoá, xã hội và chính trị của các nhà nho Duy Tân đã mở lối cho giới Tăng già nước ta đa số còn nặng đầu óc thủ cựu, thấm đạt dễ dàng hơn các khẩu hiệu cách mạng mà sư Thái Hư đề xướng ở Trung Quốc vào thập niên 1910.

Trong tiến trình dẫn tới sự hình thành phong trào chấn hưng Phật giáo trên cả ba miền đất nước, đã xuất hiện  những sự kiện tác động ít nhiều trên đời sống tâm linh của quần chúng:

- Tháng 2/1861 đô đốc Charner thống lãnh quân Pháp đánh chiếm đồn Kỳ Hoà ở Gia Định. Sau đó quân Pháp trưng dụng 4 chùa danh tiếng của Gia Định thành là chùa Khải Tường, Cây Mai, Kiểng Phước và chùa (đền) Hiếu Trung (Pagode des Mares) để thành lập phòng tuyến Lignes des Pagodes (phòng tuyến các chùa). Tượng Phật bị lôi ra ngoài, Tăng sĩ bị đuổi khỏi chùa. Sau đó chùa Khải Tường (từng được sắc phong là Quốc Ân Khải Tường) bị quân Pháp biến thành trường học. Chùa Kiểng Phước tới năm 1866 chỉ còn là vài thanh gỗ mục. Đền Hiếu Trung còn lại vài bức tường nằm trong khu doanh trại của quân Pháp. Cho tới năm 1865, quân Pháp triệt hạ hầu hết các chùa lớn, chỉ để lại các chùa nhỏ trong ngõ hẻm ở Gia Định Thành. Tháng 6/1867, quân Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây, lập chánh quyền bảo hộ trên toàn Nam Bộ. Ngày 7.8.1867 cụ Phan Thanh Giản tuẫn tiết bằng thuốc độc.

Nhà cầm quyền bảo hộ Pháp bắt các Tăng sĩ đi lính hoặc đóng thuế thân. Các chùa muốn tổ chức an cư kiết hạ (trường hương) phải xin phép trước. Bản phúc trình chép tay Monographie de la Province de Gia Dinh của J. Ch. Balencie năm 1899 cho biết: Gia Định lúc đó có 305 chùa (trong đó có 43 chùa ngươi Hoa), tu sĩ có 82 Tăng, 49 ni, Phật tử có 211,194 người. Như vậy trên phân nửa số chùa còn lại sau chiến tranh không có Tăng ni coi sóc.

- Tháng 11/1883, quân Pháp đánh Bắc Kỳ. Họ chiếm đóng và triệt hạ nhiều chùa tại Hà Nội. Ngày 6/6/1884, triều đình Huế ký hoà ước Patenôtre với Pháp chia nước ta làm 3 phần: Nam kỳ là thuộc địa của Pháp, Trung Kỳ (từ Bình Thuận tới Thanh Hoá) và Bắc Kỳ chịu quyền bảo hộ của Pháp nhưng dưới hai chế độ cai trị khác nhau. Năm 1889, Pháp phá hủy một ngôi chùa lớn 150 gian là chùa Quan Thượng sau khi đã sung công làm kho của cục quân nhu Pháp một thời gian. Chùa Quan Thượng trước đây được tổng đốc Hà Nội Nguyễn Đăng Giai đích thân đứng ra đại trùng tu trên nền chùa cũ thành ngôi chùa lớn 150 gian, bốn mặt đào cừ làm hồ sen, khởi công từ năm 1841 tới 1647 thì hoàn tất. Vì vụ trùng tu này, tổng đốc Nguyễn Đăng Gia bị sử gia nhà Nguyễn chê trách là làm tổn phí nhiều tiền của thập phương.

Năm 1884 theo yêu cầu của khâm sứ Pháp tại Băc Kỳ, tổng đốc Hà Nội Nguyễn Hữu Độ cung hiến tháp Báo Thiên chùa Sùng Khánh (xây từ đời vua Lý Thánh Tông 1054-1072) cho giám mục Puginier phá đi để xây nhà thờ lớn Hà Nội.

Ở Trung Kỳ, sau cuộc khởi loạn Giặc Chày Vôi do anh em Đoàn Hữu Trưng lãnh đạo  (sư Nguyễn Văn Trí trụ trì chùa Long Quang làm quân sư) năm 1866 bị thất bại, vua Tự Đức ra lệnh bắt giam và xử tử nhiều Tăng sĩ các chùa miền Trung, một số lớn khác bị bắt hoàn tục. Mặc dù Hoàng phi Lệ Thiên (đệ tử của thiền sư Liễu Triệt)  đã can thiệp và được vua Tự Đức xiêu lòng trước lời năn nỉ, kinh thành Huế sau sự trừng phạt của nhà vua chỉ còn 24 vị trụ trì coi sóc 24 ngôi chùa mà thôi. Nên biết là vào năm 1750, đã có khoảng 400 ngôi chùa tại Huế.

- Năm 1893 mục sư David Lelacheur đến Sài Gòn bắt đầu việc truyền đạo Tin Lành. Năm 1918 mục sư Richmond Merril đến Hải Phòng rao giảng Tin Lành. Năm 1921 Hội Thánh Tin Lành An Nam thuê nhà văn Phan Khôi đối chiếu bản Hán văn và bản Pháp ngữ dịch Thánh Kinh Tân Ước ra chữ Quốc ngữ. Không lâu sau, một thánh đường Tin Lành được hoàn thành tại phố Hàng Da, Hà Nội. Tuy nhiên, giới Tăng sĩ Phật giáo nước ta vốn chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo Trung Quốc từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1692- 1725) nên đã không mảy may lưu tâm tới ảnh hưởng hoạt động truyền giáo của các mục sư Tin Lành và giáo hội Công giáo tới sự tồn tại và phát triển của Phật giáo nước nhà, nhất là tại các cộng đồng dân thiểu số ở cao nguyên.

- Năm 1926, đạo Cao Đài bắt đầu được truyền bá ở đồng bằng Nam Bộ và nhanh chóng thu hút các Phật tử. Theo báo cáo của Thống Đốc Nam Kỳ: năm 1930 đạo Cao Đài có từ 500  ngàn tới 1 triệu tín đồ trong tổng số dân Nam Kỳ là 4 triệu tới 4 triệu rưỡi. Có nhận xét cho rằng ở Nam Kỳ lúc đó, đạo Phật và đạo Khổng suy yếu vì thiếu những tu sĩ có học thức. Trong khi đó, đạo Cao Đài là một tôn giáo tổng hợp Phật-Lão-Nho, một hệ thống tổ chức giáo hội chặt chẽ, nghi thức hành lễ trang trọng gây ấn tượng mạnh  và thành phần sáng lập đạo là những công chức cao cấp trong chính quyền thuộc địa có uy tín, có trình độ học thức và có khả năng thu hút quần chúng.

Chữ Quốc ngữ bắt đầu được dạy chung với chữ Pháp tại các trường công lập từ bậc Ấu học tới bậc Trung học từ năm 1908 theo đề nghị của Hội Đồng Cải Cách Học Vụ do chính quyền bảo hộ Pháp thành lập. Tới thập niên 1920 chữ Quốc ngữ đã trở thành phổ thông vì dễ học, dễ đọc, lại thêm có sự xuất hiện của các tạp chí có uy tín được phổ biến trong cả nước bắt đầu được quần chúng ưa thích như Đông Dương Tạp Chí (từ 1913), Nam Phong Tạp Chí (từ 1917), Học Báo (từ 1919) và Hữu Thanh (từ 1921). Cuốn Việt Nam Sử Lược do Trần Trọng Kim viết năm 1919, được xuất bản như một sách giáo khoa quốc ngữ lần đầu năm 1921 đã khơi nguồn cho một tinh thần dân tộc, dẫn đến kết quả là năm 1925, giới học sinh cả nước tranh đấu cho vụ án Phan Bội Châu.

Trong khi đó, các khoa cử Hán văn bị chính quyền Bảo Hộ Pháp bãi bỏ từ năm 1880 tại Nam Kỳ (theo quyết định của đô đốc Lagrandière, năm 1915 tại Bắc Kỳ và năm 1918 tại Trung Kỳ. Hán học tàn lụi dần vì ngay cả một nhà nho như Phan Chu Trinh cũng kêu gọi: bất phế Hán tự, bất túc dĩ cứu Nam quốc (không bỏ chữ Hán không thể cứu được nước Nam).

Báo chí Quốc ngữ là phương tiện giúp phổ biến các đề nghị chấn chỉnh và  hiện đại hoá Phật giáo của giới cư sĩ tân học. Tiếp thu được các phân tích sâu sắc và diễn giải dễ hiểu về Phật pháp của giới học giả Tây phương, giới cư sĩ tân học có một căn bản Hán học sẽ là thành phần chủ yếu thúc đẩy sự chấn hưng để Phật giáo nước ta đáp ứng được nhu cầu tâm linh của thời đại mới.  Thời đại từ cuối thập niên 1910 tới thập niên 1920 là một thời kỳ kinh tế ổn định (tới mức có thể gọi là phát triển) ở nước ta, thúc đẩy nhiều thay đổi về văn hóa. Trên đường tìm kiếm những cái mới vào lúc giới học giả Tây phương đã có những nỗ lực đáng kể trong việc nghiên cứu Phật pháp, nhiều cư sĩ tân học nước ta đã làm quen dễ dàng với Phật học và trở thành những trụ cột của phong trào Chấn Hưng Phật Giáo sau này như Hồng Tại - Đoàn Trung Còn và Chánh Trí - Mai Thọ Truyền ở miền Nam, Tâm Minh - Lê Đình Thám ở miền Trung, Lệ Thần - Trần Trọng Kim, Thiều Chửu - Nguyễn Hữu Kha và Đồ Nam - Nguyễn Trọng Thuật ở miền Bắc.

Sự tham gia tích cực có lúc mang tính chủ đạo của giới cư sĩ chấp nhận hòa hợp với giới Tăng già là điểm đặc biệt cần được nhấn mạnh của phong trào chấn hưng Phật giáo nước ta đầu thế kỷ 20. Nó tạo nên tính quần chúng, tính hiện đại, tính hòa hợp và là sự khác biệt quan trọng so với Phật giáo Trung Quốc cho phong trào này.

Về thời điểm phong trào chấn hưng Phật giáo nước ta, Nguyễn Lang, một bút hiệu của sư ông Nhất Hạnh (Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tập 3) và Thượng toạ Thiện Hoa (50 năm Chấn Hưng Phật Giáo) đều cho rằng bắt đầu từ sự vận động của sư Khánh Hoà ở chùa Tiên Linh, Bến Tre, năm 1923 dẫn tới việc thành lập hội Lục Hoà Liên Hiệp tại chùa Long Hoa ở Trà Vinh.

Thực ra những nỗ lực của sư Khánh Hoà, Khánh Anh, Thiện Chiếu và vài chư Tăng miền Nam từ năm 1923 chỉ có tính cách dò dẫm, thí nghiệm trong một phạm vi nhỏ của vài ngôi chùa miền Nam. Cho tới năm 1927, sư Khánh Hoà cử một sứ giả tân học đầy nhiệt huyết, có khả năng biện thuyết cao là sư Thiện Chiếu ra Bắc để vận động chấn hưng Phật giáo theo chủ trương của hội Lục Hoà nhưng không thành công. Cũng vậy, những nỗ lực của hai ông vào thời gian này tại các chùa miền Trung không đạt được sự đồng thuận trong giới Tăng già địa phương một cách dễ dàng.

Những loại thí nghiệm giới hạn như vậy đã xảy ra trước đó ở nhiều nơi khác, chỉ nên coi là giai đoạn tiền chấn hưng Phật giáo. Phải đợi tới khi các hội Phật giáo được thành lập và xuất bản các báo chí Phật giáo từ năm 1929, việc chấn hưng Phật giáo mới thực sự trở thành phong trào của tứ chúng (nam nữ tu sĩ và nam nữ cư sĩ) đồng khởi trên phạm vi cả nước và đạt được những thành quả cải cách thật sự.

Diễn tiến giai đoạn tiền chấn hưng Phật giáo nước ta sẽ được trình bày theo lối biên niên để chúng ta có thể theo dõi từ những tác động khơi mở đầu tiên, hầu ghi nhận rõ ràng, trung thực và công bằng hơn những đóng góp của tứ chúng ảnh hưởng như thế nào tới một phong trào tưng bừng trong cả nước vào thập niên 1930.

Năm 1848: Hồng Nhậm, con thứ hai của vua Thiệu Trị lên ngôi, lấy niên hiệu Tự Đức (1848-1883). Triều Nguyễn tới đời vua thứ tư này đã suy yếu nhiều. Các cuộc nổi loạn xảy ra khắp nơi, liên tục  từ khi Gia Long lên ngôi (1802). Ngay khi Tự Đức ngồi lên ngai vàng, đại thần Trương Quốc Dung đã tâu vua: xin tiết kiệm việc tiêu dùng vì hiện nay tiền của sức lực của dân gian kém trước đến sáu phần mười. Năm 1861 khi quân Pháp đánh vào thành Gia Định, Nguyễn Tri Phương đã phải than: quân và dân, của đã hết, sức đã thiếu! (Lịch Sử Việt Nam, tr.374). Tuy vậy, Tự Đức vẫn duy trì nếp sống xa xỉ với hơn 100 bà vợ và vẫn huy động sức người sức của vốn đã kiệt quệ của quốc gia để xây cất Khiêm Lăng.

Năm 1849: Đoàn Văn Huyên (1807-1856) khơi mở giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương tại chùa Long Kiến ở núi Báu (Bửu Sơn), Long Xuyên. Trước đó, ông đã truyền bá giáo lý này từ năm Ất Tỵ (1845), bị triều đình nghi là “gian đạo sĩ”, ra lệnh cho ông phải vào chùa Giác Lâm (Chợ Lớn) quy y với Thiền sư Hải Tịnh. Tại đây ông được ban pháp danh Minh Huyên, pháp tự Pháp Tạng, đạo hiệu Giác Linh. Sau đó, tổng đốc An Giang Doãn Uẩn xây chùa Long Kiến năm 1847 và bắt ông phải trú trì tại đây để tiện kiểm soát hoạt động của ông. Đệ tử xưng tụng ông là Phật Thầy Tây An và gọi chùa Long Kiến là Tây An Cổ Tự. Mộ bia ông bên hông chùa Tây An Cổ Tự có các chi tiết này, ghi thêm ông thuộc phái Lâm Tế đời 38 dòng Bổn Nguyên. Tuy nhiên một nhân sĩ thuộc hàng lãnh đạo của Phật Giáo Hoà Hảo (Nguyễn Long Thành Nam) cho rằng đây là một gán ghép có tính bịa đặt. Cuốn Biên Niên Sử Phật Giáo Sài Gòn – Gia Định Thành Phố Hồ Chí Minh (tr. 48) giới thiệu ông như một cư sĩ, lại ghi đồng bào thường gọi ông là cư sĩ Tây An. Đệ tử của ông cho rằng Phật Thầy Tây An sau khi tịch sẽ trải qua 4 lần chuyển kiếp để thị hiện thế gian. Đó là: Phật Trùm ở núi Tà Lơn giai đoạn 1868-1875, Bổn Sư núi Tượng Ngô Lợi giai đoạn 1879-1890, Sư Vãi Bán Khoai giai đoạn 1901-1902 và giáo chủ Huỳnh Phú Sổ ở làng Hoà Hảo Châu Đốc từ 1939.

         Bửu Sơn Kỳ Hương được coi là một cuộc cách mạng qua hình thức địa phương hoá Phật giáo, tạo cho Phật giáo môt bản sắc sinh động trong môi trường nông dân chất phác, ít học của đồng bằng Nam Bộ. Phật Thầy Tây An  Đoàn Văn Huyên truyền bá một pháp môn dễ hiểu, dễ áp dụng mà những nét chính như sau:

- Tùy trình độ và hoàn cảnh mà hoá độ: Hành xử tứ ân là ơn cha mẹ, ơn đất nước, ơn tam bảo và ơn đồng bào nhân loại. Thiền Tịnh song tu, vừa tu Thiền vừa trì niệm danh hiệu A Di Đà để được vãng sanh.

- Phước Huệ song tu: Ông đưa ra một chủ trương có tính cách mạng: không lập chùa, không thờ tượng mà chỉ thờ tượng trưng một tấm vải đỏ (trần điều), lập những trại ruộng để khai thác đất hoang rất nhiều tại vùng tứ giác Long Xuyên Châu Đốc. Như vậy ông là người có công lớn trong việc khẩn hoang miền Nam và người khai sáng một thành phần tu sĩ Phật giáo mới sau này người ta gọi là “các nhà sư kinh tế” bắt đầu phát triển ở trong nước từ thập niện 1980. Cũng có thể coi ông là người sáng lập ra những nông xã tập thể trước chủ nghĩa Cộng sản từ hơn nửa thế kỷ. Ngôi chùa duy nhất do ông dựng tại Bảy Núi (Châu Đốc) là Thới Sơn Tự dù qua nhiều lần trùng tu sau này, tới nay cũng chỉ có bàn thờ Tổ, không có bàn thờ Phật.

Tổng đốc An Giang Doãn Uẩn lập chùa Long Kiến năm 1847, bắt ép ông phải trú trì tại chùa này để tiện kiểm soát hoạt động của ông, có lẽ cũng để che chở ông khỏi bị triều đình trừng trị về tội “gian đạo sĩ”. Chúng ta nên biết trong triều đại của 4 đời vua đầu tiên của nhà Nguyễn (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) kéo dài 81 năm (1802-1883) có hơn 350 cuộc nổi loạn, mà thời Tự Đức là nhiều nhất.

Đệ tử Bửu Sơn Kỳ Hương có những người đã trở thành anh hùng dân tộc kháng chiến chống thực dân Pháp như: Trương Công Định (1820-1864) từng đánh Pháp, chiếm tỉnh Gò Công năm 1862. Nguyễn Trung Trực (1837-1868) từng đốt tàu chiến Espérance của Pháp trên sông Nhật Tảo năm 1861. Ông được ca ngợi qua câu đối: hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên địa, kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần. Trước khi khởi nghĩa, ông thường tới chùa Sùng Đức ở Gia Định vấn đạo nhà sư Ngộ Không- Thật Tế (đời 39 Lâm Tế chánh tông). Hiện chùa này còn bàn thờ riêng thờ ông. Trần Văn Thành (?-1873) thường gọi là Đức Cố Quản, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Láng Linh năm 1867.

Năm 1850: trước tình trạng khá đông đảo Tăng ni trở thành “thầy cúng đám” thuần túy, thiền sư Hải Tịnh cải biến Quan Âm Viện thành chùa Giác Viên (nay thuộc quận 11 thành phố HCM), mở lớp đào tạo các Tăng sĩ thông hiểu về giới luật, kinh điển và nghi thức. Nỗ lực cá nhân của ông không tạo được ảnh hưởng rộng lớn vì vào thời điểm này Phật sự chính của các chùa “sắc tứ” (chùa vua, thường là các chùa lớn) là cúng kiếng cầu đảo cho hoàng gia. Mỗi lần cầu đảo như vậy có thể kéo dài nhiều ngày và thường có đông đảo hoàng tộc, quan lại tham dự. Chư Tăng từ nhiều chùa lớn thường được triệu tập trước để tập dượt. Do đó phần tụng niệm phải phong phú và có âm điệu tạo được ấn tượng trong thành phần vua quan dự lễ.

        Ngay cả sau này trong thời gian 1885-1945, trong Tăng giới Huế chiếm đại đa số vẫn là  thành phần mang áo Tăng sĩ chuyên đi cúng đủ loại trong dân gian từ cúng đám ma tới cầu mưa… (Lịch Sử Phật Giáo Xứ Huế, tr. 374). Sư Chân Đạo Chánh Thống (1901-1968), giảng sư nổi tiếng của các trường Phật học ở Huế và miền Trung từ 1932, gọi một cách khinh miệt thành phần Tăng sĩ này là “thợ tụng”, “thằng” trong bài thơ tứ tuyệt:

Cửa Phật ra vào để kiếm ăn,

Mang chuông, cắp mõ chạy lăng xăng,

Tam thân tứ trí đành không biết,

Thợ tụng thầy tu cũng một thằng.

(Toàn Tập Chân Đạo Chánh Thống, tr.321).

        Trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Lược soạn năm 1942, sư Thích Mật Thể (1912-1961) viết ở lời chú cuối chương 9: Có người bảo Phật giáo thời nay bị suy đồi là bởi thế lực truyền bá của đạo Thiên Chúa. Nhưng theo chúng tôi thì không phải; chỉ là tại nhân tâm của thời mạt pháp mà thôi, khiến cho trong Phật giáo thiếu những bậc tu hành chơn chánh đến nỗi đạo pháp phải suy vi.

Năm 1859: Hòa thượng An Thiền Phúc Điền (1790 – 1860) trú trì chùa Liên Tông (Hà Đông) chỉ đạo các đệ tử của ông tại chùa Bồ Sơn (Bắc Ninh) thực hiện bản khắc gỗ 5 tác phẩm Thiền tong đời Trần đặt tên là Truyền Đăng Ngũ Quyển Tân Tư gồm có: Thiền Uyển Tập Anh, Thánh Đăng Lục, Tam Tổ Thực Lục, Thiền Điển Thống Yếu Kế Đăng Lục và một số văn bản Phật giáo khác tập hợp lại dưới tên “Ngọai Khóa Tạp Lục”.

        Phúc Điền là tác giả bộ sách quan trọng Đạo Giáo Nguyên Lưu (3 quyển) còn được gọi là Tam Giáo Thông Khảo, có lẽ được in năm 1845 vì bài tựa của Nguyễn Đại Phương viết vào năm này… Quyển thứ nhất nói về đạo Phật qua các đề mục: Việc du học của thiền sư Tính Tuyền Trạm Công, các bản kinh khắc ở nước ta, khởi thủy Thiền học nước ta, các tháp Phật ở nước ta, Thiền phái Vô Ngôn Thông, các danh Tăng ở triều đình, các danh Tăng đời Lê, các danh Tăng đời Lý, các danh Tăng đời Trần, Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Thiền phái Thảo Đường, những truyền thuyết kỳ bí liên quan tời các thiền sư nước ta qua các triều đại, danh từ Phật học, các thần thoại Phật giáo nước Tàu và nước ta. Quyển hai và 3 nói về Khổng giáo và Lão giáo. Sử gia Lê Mạnh Thát dự định dịch và giới thiệu bộ sách này trong bộ Tổng Tập Văn Học Phật Giáo.

        Phúc Điền là người khai sơn chùa Thiên Quang ở núi Đại Hùng (Hà Nội). Nguyễn Lang (VNPGSL 2: 252, 255) cho rằng An Thiền và Phúc Điền là hai người.

Năm 1866: Giặc Chày Vôi do Đoàn Hữu Trưng (con rể Tùng Thiện Vương) lãnh đạo khởi loạn ở Huế. Họ suýt bắt được vua Tự Đức

Năm 1870: Ngô Lợi (1831-1890) thành lập giáo phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa tại xã An Lộc, An Giang. Ông tiếp nối và khai triển giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương thành nguyên lý Hành Sử Tứ Ân, sử dụng lòng phái (giấy chứng nhận vào Đạo) có dấu Bửu Sơn Kỳ Hương. Tuy Ngô Lợi tuyên bố đạo của ông là đạo thờ ông bà, thực ra pháp tu của Tứ Ân Hiếu Nghĩa là một tổng hợp: trì niệm theo Thiền Tịnh - Xử sự theo Nho giáo - Luyện tinh, khí, thần theo Lão giáo - Ấn quyết thần chú theo Mật giáo. Trong số 28 bộ kinh phổ biến trong giáo phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, tương truyền Ngô Lợi viết 8 bộ kinh, 18 bộ kinh do đệ tử của ông là Nguyễn Hội Chân đúc kết các lời ông giảng, còn lại hai kinh là Diệu Pháp Liên Hoa kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn phẩm và Phật thuyết A Di Đà kinh là các kinh thường tụng của Phật giáo Bắc tông. Các kinh còn được truyền tụng tới nay tại Ba Chúc là:

- Linh Sơn Hội Thượng kinh

- Bà La Ni kinh

- Hiếu Nghĩa kinh (thượng, trung, hạ)

- Siêu Thăng kinh ( còn gọi Siêu Thăng chân kinh)

- Phổ Độ kinh

- Thiên Địa Kim Cang kinh

- Ngũ Hồ kinh

- Ngũ Nhạc kinh

- Ngũ Công Thiên Đồ kinh

- Ngũ Công Cứu Kiếp kinh

- Ngũ Công Quan Âm kinh

- Âm Chất chân kinh

- Hoàn Sinh chân kinh

- Hoàn Hồn kinh

- Bắc Đẩu Thất Nguyên kinh

- Kim Cương Thọ Mệnh kinh

- Phật Thuyết Thiên Địa kinh

- Phật Thuyết Thiên Địa Nhập Dương kinh

- Ngũ Hoàng Cốt Tủy chân kinh

- Phổ Am Tịch cảm kinh

- Siêu Thăng Phan Đào kinh

- Phổ Độ Phan Đào kinh

- Phật Thuyết Phân Châu kinh

- Phật Thuyết Cao Vương kinh

- Đào Viên kinh (Đào Viên Minh Thánh kinh

- Diêu Pháp Liên Hoa kinh, Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn phẩm

- Phật Thuyết A Di Đà kinh

- Ngọc Lịch Đồ Thư Tập Chú

  - Bộ kinh thứ 28 gọi tắt là Đồ Thư ghi lại sự tích Ngô Lợi, hình vẽ các cơ sở tôn giáo của Tứ Ân Hiếu Nghĩa, hình vẽ các bùa chú và hướng dẫn cách sử dụng. Sách này bằng chữ Hán chỉ có một quyển do chức sắc đạo cất giữ.

        Ngô Lợi sinh năm 1831 tại Mỏ Cày (Bến Tre) trong một gia đình thợ mộc. Tương truyền năm 20 tuổi ông viết Bà La Ni kinh. Bản lưu truyền tới nay gồm 223 chữ Hán. Năm 1867 ông thiếp đi 7 ngày đêm, vì vậy còn được gọi là Năm Thiếp. Tỉnh dậy, ông tự xưng là đắc đạo. Tuy vậy tới ba năm sau ông mới quy y và bắt đầu thu nhận tín đồ.

        Tiếp tục đường lối khẩn hoang của Phật Thầy Tây An, năm 1876 Ngô Lợi dẫn tín đồ vào núi Tượng (xã Ba Chúc, huyện Tri Tôn, Châu Đốc) khai hoang, thành lập được 4 gánh (thôn) trong vùng núi Tượng, tại mỗi gánh ông cho dựng một ngôi chùa. Bốn ngôi chùa còn lại tới ngày nay là Phi Lai, Thanh Lương, Long Châu và Tam Bửu. Sau đó ông sai dựng đình và miếu. Cả thảy 14 cơ sở thờ phượng mà chữ đầu của tên gọi được tóm tắt trong câu: Phi Thanh Long Tam Bồng Linh Hội Tú Sơn Đình Vạn Mã Hồi Tiên. Riêng Hồi Thế Văn Ngôn Miếu (miếu được trang trí bằng chữ Hồi giáo) chưa được xây dựng thì Ngô Lợi tịch. Hiện nay giáo phái này phát triển được 24 gánh (Tư Tưởng Phật Giáo Việt Nam, tr. 707).

Một câu hỏi nên được đặt ra: Ngô Lợi xây dựng Hồi Miếu với mục đích gì? Năm 1865, nhà sư Khmer Pou Kombo tự nhận là hoàng tử Ang Phin, quy tụ được khoảng 2 ngàn người Chàm Hồi giáo ở Châu Đốc chống lại vua Norodom, kéo quân vây thành Udong. Quân Pháp mộ được khoảng 1 ngàn người Chàm cũng ở Châu Đốc giúp vương triều Khmer bảo vệ thành này. Sư Pou Kombo thua trận bỏ chạy về Châu Đốc, chiêu mộ thêm lính Chàm và Khmer. Tháng 12/1866, Pou Kombo tiến vào Udong. Lính Khmer trong thành bỏ chạy, chỉ còn lính Chàm ở lại cố thủ. Ngày hôm sau hơn 500 lính Chàm trong đạo quân Pou Kombo bỏ nhà sư hồi chánh với lính Chàm trong thành. Tới năm 1868, sau cuộc phản công của hoàng tử Khmer Sisowath giết được sư Pou Kombo, nhiều nhân sĩ người Chàm Hồi giáo ở Châu Đốc được giữ các chức vụ quan trọng trong triều đình Khmer của vua Norodom. Nguyễn Văn Huy (Cộng Đồng Người Chăm tại Kampuchia) cho rằng do áp lực của người Pháp đối với vua Norodom. Như vậy phải chăng Ngô Lợi dựng Hồi Miếu như một chiến thuật ngoại giao với cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo ở Châu Đốc, vốn đông đảo về số lượng lại có ưu thế với chính quyền thực dân Pháp và chính quyền Khmer?

        Các chùa của giáo phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa thờ trần điều (tấm vải đỏ), Phật Vương, Phật Thầy (Đoàn Văn Huyên), Bổn Sư (Ngô Lợi) và Phật Trùm (ông Đạo Đèn).

Phật Vương ở đây không phải là Phật Thích Ca, không phải là một danh hiệu Phật đã được phổ biến trong kinh điển Đại Thừa, cũng không thể là sự tôn vinh ông vua triều Nguyễn đương quyền. Nếu Phật Vương là nhân cách hoá ý niệm  dân tộc, đất nước trong bộ áo Phật giáo thì quả là một quan niệm cách mạng giáo lý.

Phật Trùm là một nhà sư gốc Miên xuất hiện năm 1868, sử dụng lòng phái (giấy chứng nhận cấp cho tín đồ) màu đỏ có dấu Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông truyền đạo sang cả đất Miên, bị thực dân Pháp bắt đi đày một thời gian. Được thả về, ông về ẩn tu tại núi Tà Lơn và tịch tại đây năm 1875. Vì vậy mặc dù hành đạo từ năm 1867, thu nhận đệ tử từ năm 1870, tới năm 1876 nghĩa là sau khi Phật Trùm tịch, Ngô Lợi mới lấy danh hiệu Đức Bổn Sư để lãnh đạo giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương (Phật Giáo Hoà Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc, phần 2 chương 4). Đệ tử Tứ Ân Hiếu Nghĩa tin rằng Phật Trùm và Đức Bổn Sư là hai trong 4 lần chuyển kiếp của Phật Thầy Tây An.

        Tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa niệm lục tự Di Đà (Nam Mô A Di Đà Phật) nhưng không thờ Phật A Di Đà. Họ để tóc dài, búi lại sau ót theo tinh thần của Nho giáo “thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương” (dịch: thân thể tóc da, thụ hưởng từ cha mẹ, không thể làm thương tổn). Vì vậy, giáo phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa chỉ có thành phần cư sĩ, không có thành phần cắt tóc cạo đầu làm tu sĩ.

Đêm 5 tháng 7 năm 1885, sau cuộc tấn công quân Pháp tại đồn Mang Cá không thành công, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đưa vua Hàm Nghi trốn khỏi hoàng thành Huế ra Tân Sở. Tại đây, vua Hàm Nghi truyền hịch Cần Vương kêu gọi sĩ phu khởi nghĩa chống Pháp, được giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương hưởng ứng mạnh mẽ. Trước sự phát triển của giáo phái này, tổng đốc Trần Bá Lộc đã đàn áp họ một cách dã man trong suốt 12 năm (1876-1888) qua nhiều lần đốt chùa, đốt nhà, bắt bớ tra tấn tín đồ.

Sau khi Ngô Lợi tịch vào năm 1890, không có ai trong số các đệ tử của ông có khả năng nối pháp nên giáo phái này bị phân hoá và người ta cho rằng khuynh hướng trừ tà chữa bệnh theo ảnh hưởng của Đạo giáo có vẻ như lấn át ảnh hưởng Phật giáo. Mãi tới năm 1901-1902, Sư Vãi Bán Khoai mới xuất hiện đi nhiều nơi trong vùng của Bửu Sơn Kỳ Hương phổ biến Sấm Giảng Người Đời nhắc nhở mọi người giáo lý của Phật Thầy Tây An. Ông xuất hiện như một nhà sư dáng người gầy, y phục giống như phụ nữ, chèo thuyền vừa bán khoai vừa ngâm Sấm Giảng Người Đời theo điệu lục bát. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, ông biến mất.

Năm 1885: cuộc khởi nghĩa 18 thôn vườn trầu ở Hóc Môn do Phan Công Hớn lãnh đạo. Chính quyền Pháp cho rằng cuộc khởi nghĩa này do Thiên Địa Hội, một tổ chức “bài Mãn phục Minh” của Hoa kiều chủ trương (Biên Niên Sử Phật Giáo Sài Gòn Gia Định – Thành Phố Hồ Chí Minh, tr.61).

        Thực ra, đây là hoạt động của một hội kín do Nguyễn Văn Bường và Phan Công Hớn (còn gọi là Quản Hớn) lãnh đạo. Ba năm trước (1882) họ đã tấn công chiếm phủ đường Hóc Môn, giết đốc phủ Trần Tử Ca và treo đầu trên cột đèn chợ Hóc Môn. Theo dư luận, Đốc phủ Ca nổi tiếng về thủ đoạn tàn ác bắt trẻ em con của các người tham gia phong trào Cần Vương chống Pháp cho vào cối giã gạo giã cho tới chết. Sư Minh Hoà – Hoan Hỷ (1846 – 1916) có tham gia cuộc tấn công phủ đường Hóc Môn. Sau đó, hội kín này bị chính quyền Pháp truy nã trả thù gắt gao. Mặc dù vậy, khi liên lạc được với hai người con của cụ Phan Thanh Giản (Phan Tôn, Phan Liêm), họ vẫn chuẩn bị tấn công Sài Gòn vào năm 1885. Nguyễn Văn Bường bị bắt trước khi cùng nghĩa binh tấn công Sài Gòn, Phan Công Hớn tử trận tại Hóc Môn, vì vậy hội kín này tan rã. Sư Minh Hoà phải xa lánh chùa đi ẩn tu. Ngày 26 tháng 1 Bính Thìn (1916) sư tịch. Ông được thờ tại nhiều chùa ở miền Nam (Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam Thế Kỷ 20, tập 1).

Năm 1892: sư Lưu Đạo Nguyên khởi công xây dựng điện Ngọc Hoàng ở Đakao, Gia Định. Ông từ Trung Quốc tới Quy Nhơn rồi vào Sài Gòn truyền bá tông phái Minh Sư Phật Đường. Tông phái này dựa vào Phật giáo để hoạt động phong trào “bài Mãn phục Minh”. Nên biết: nhà Mãn Thanh đã chiếm trọn Trung Quốc từ năm 1645, nghĩa là 247 năm về trước.

        Tới năm 1895, sư Ngô Đạo Quang xây dựng Phổ Tế Phật Đường tại Chợ Đệm Mỹ Tho thì từ đây tông phái Minh Sư mới bắt đầu phát triển tới Chợ Lớn, Tân An, Mỹ Tho, Gò Công.

Năm 1896: (Bính Thân), trường Quốc Học ở Huế khai giảng khoá đầu tiên, thông ngôn hạng nhất Ngô Đình Khả được bổ nhiệm làm chưởng giáo (hiệu trưởng) . Đây là trường công lập dạy chữ Quốc Ngữ và chữ Pháp đầu tiên. Thành phần tuyển sinh là các con cháu tôn thất (hoàng tộc), con quan và các hậu bổ (những tiến sĩ, phó bảng và cử nhân đang chờ được triều đình bổ nhiệm làm quan). Trường được thành lập do đề nghị và vận động của Ngô Đình Khả từ năm 1890. Trụ sở của trường là trại thủy binh của triều đình Huế bị bỏ hoang sau hoà ước Patenôtre 1884. Vài năm sau, trường mở thêm ban thành chung (4 năm trung học), chức chưởng giáo đổi thành đốc học do Edmond Nordemann đảm trách. Ông là người Pháp thông thạo quốc ngữ, lấy tên Việt (Ngô Đê Mân), đã biên soạn một hợp tuyển thi ca Việt Nam  (Cresthomatie Annamite) và một bản phiên âm truyện Kiều xuất bản năm 1897. Cũng nên nói thêm: một hãng phim của Pháp đã tuyển các diễn viên hát chèo của rạp Quảng Lạc ở Hà Nội đóng phim Kim Vân Kiều (phim câm) và cho chiếu lần đầu tiên tại Chợ Lớn tháng 10/1898.

        Cư sĩ Điềm Tịnh (Trần Viết Thọ, 1836-1899) biên soạn sách Hàm Long Sơn Chí 6 tập, mỗi tập gồm nhiều quyển. Năm sau 1897, Như Như đạo nhân (Nguyễn Phúc Hồng Bàng 1851- ?) tuân lệnh sư phụ là sư Tâm Truyền tục biên bộ này, trong 3 tháng viết thêm được 6 tập nữa. Bộ sách chữ Hán quan trọng này chưa được khắc in và dịch ra quốc ngữ, bản thảo lưu trữ ở nhiều nơi, còn mất bao nhiêu chưa rõ. Tuy vậy bộ sách đó do hai cư sĩ Phật giáo biên soạn được giới học Phật ở Huế ca ngợi là một công trình vĩ đại của Phật giáo. Điềm Tịnh xuất gia năm 1898 có pháp danh Thanh Phước tự là Chu Toàn, tự thiêu để cúng dường chư Phật ngày 10 tháng 2 năm Kỷ Hợi 1899.

Sách Hàm Long Sơn Chí chủ yếu viết về các chùa ở Huế, gồm:

Phần Sự lục: ghi sơ lược lịch sử các chùa từ lúc khai sơn, địa phận, các vị trú trì kế tiếp nhau, cách thờ tự, điền thổ của Phật tử ngoại hộ, các vị sư nổi bật trong chùa, các năm mở đại giới đàn mở tại chùa …

Tiểu truyện các đại sư, các tổ: ghi ngày giờ năm sanh, quê quán, năm và chùa nơi xuất gia, đắc pháp với ai, kệ phú pháp, ngày giờ tịch, vị trí tháp mộ, ngày lập và người soạn bi ký. Phần này ít thấy ghi thế danh các nhà sư.

           Sơn môn chí (lịch sử thành lập và hoạt động của mỗi chùa) là tài liệu quan trọng cho việc biên soạn lịch sử Phật giáo, cần được các giáo hội Phật giáo hiện nay trong cũng như ngoài nước quan tâm đặc biệt để chỉ thị cho mỗi chùa thống thuộc phải thực hiện.

Năm 1898: nhà cầm quyền Pháp thành lập trường Viễn Đông Bác Cổ (École Francaise d’Êxtreme Orient, viết tắt là EFEO). Cơ quan này quy tụ nhiều học giả khảo cổ và Đông Phương Học danh tiếng của Pháp. EFEO đã tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu về văn minh và văn hoá Đông Nam Á, một số có liên hệ tới Phật giáo. Chẳng hạn giám đốc EFEO từ 1920-1950 là học giả danh tiếng Georges Coedès đã bỏ ra nhiều năm phiên dịch các bia chữ Phạn mà ông tìm thấy tại Tháp Chàm (Phan Rang). Năm 1940-1943 các nhà sư trong Bắc Kỳ Phật Giáo Hội thực hiện được bộ Phật Điển Tùng San nhờ in dập theo bản lưu trữ của EFEO 8 tác phẩm xưa bằng chữ Hán và chữ Nôm của Phật giáo nước ta.

        Sư Võ Trứ, trú trì chùa Đá Trắng ở Phú Yên vận động các Tăng sĩ và Phật tử ở Phú Yên và Bình Định khởi nghĩa chống Pháp. Nhà cầm quyền Pháp gọi đây là “giặc thầy chùa”. Cuộc khởi nghĩa bị thất bại, Pháp lục soát tất cả các chùa ở Phú Yên và Bình Định, bắt giam rất nhiều Tăng sĩ Phật giáo.

Trước đó Võ Trứ vì bất mãn với lề lối cai trị dân của chính quyền Pháp mà bỏ chức việc làng ở Phú Yên, xuất gia và đi hoằng pháp ở nhiều vùng Kinh và Thượng tại Bình Định, Phú Yên. Ông vừa giảng đạo vừa khám bệnh, hốt thuốc và cung cấp phương tiện sinh sống cho nhiều người. Vì vậy số người theo khá đông và che chở cho ông thoát khỏi các sự truy nã của chính quyền. Dần dần, ông vận động được nhiều chùa ở Bình Định, Phú Yên trở thành cơ sở hoạt động cho ông.

        Ở miền Bắc sư Vương Quốc Chính, trụ trì động Ngọc Long ở Chương Mỹ Hà Đông, vận động các chùa từ Nghệ An tới Bắc Ninh khởi nghĩa chống Pháp đêm 5 tháng 12. Ông là một nhà nho hoạt động trong phong trào Cần Vương và là bạn thân của nhà cách mạng Nguyễn Thiện Thuật. Sau khi phong trào Cần Vương thất bại, ông xuất gia nhưng vẫn tiếp tục hoạt động cứu nước. Năm 1895 ông lập hội Thượng Chí, tôn Lý Thiếu Quân ở Nghệ An làm minh chủ, ông làm quân sư. Theo Nguyễn Lang (VNPGSL 3:14): hội Thượng Chí vận động được hàng trăm ngôi chùa từ Nghệ An tới Bắc Ninh, có cả một số phần tử Công giáo tham dự. Hội tổ chức được 5 đạo quân, dự trù tấn công vào thành Hà Nội đêm 5/12/1898. Lợi dụng khi đó có hội chợ Hà Nội, nghĩa quân có thể trà trộn vào dân chúng đi xem. Nhưng chính quyền Pháp đã biết trước âm mưu này nên đề phòng kỹ, cuộc khởi nghĩa do đó bị thất bại. Sau đó chính quyền Pháp đàn áp kịch liệt nên các cuộc nổi dậy khác ở  các tỉnh chung quanh Hà Nội như Hà Đông, Sơn Tây không khởi động được..

Năm 1905: nhà cách mạng Trần Quý Cáp soạn bài Chiêu Hồn Nước cổ võ phong trào Duy Tân. Trong 6 đoạn song thất lục bát, có đoạn cổ động tân học:

… Chữ quốc ngữ là hồn trong nước,

Phải đem ra tỉnh trước dân ta.

Sách Âu Mỹ, sách Chi Na,

Chữ kia chữ nọ dịch ra tinh tường …

        Năm 1906, ông mở lớp Tây học tại phủ Thăng Bình (Quảng Nam), rước thầy về dạy chữ Pháp và Quốc Ngữ cho học trò. Việc làm này được các nhà nho Duy Tân tiếp sức nên trong năm 1906, phong trào tân học đã lan rộng từ Quảng Nam tới các tỉnh Nam Trung Kỳ. Năm 1907, phong trào lan ra Bắc với sự thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục. Tới năm 1908 đã có hơn 40 trường Tân học như vậy được thành lập. Theo Phan Bội Châu (Ngục Trung Thư): phong trào Đông Du thịnh nhất từ xuân Đinh Mùi (1907)  tới đông Mậu Thân (1908).

Các nhà nho Duy Tân khi thực hiện cuộc cách mạng tân học đã góp phần quan trọng trong việc phổ cập, làm phong phú và hiện đại hoá chữ quốc ngữ, giúp cho nó trở thành phương tiện hữu hiệu trong việc truyền bá Phật pháp thời kỳ chấn hưng Phật giáo sau này. Có thể nói nếu không có việc phổ cập chữ quốc ngữ do công đầu của các nhà nho Duy Tân, sẽ không có phong trào chấn hưng Phật giáo tưng bừng trong cả nước ngay từ năm 1929-1930. Để hình dung rõ hơn tầm quan trọng sự đóng góp vào việc hiện đại hoá chữ quốc ngữ của các nhà nho Duy Tân, xin ghi lại nguyên văn (với những sai lầm về chính tả) trang bìa bản dịch ra quốc ngữ  (của E. Nordemann, đốc học trường Quốc Học Huế) tác phẩm Gia Huấn Ca xuất bản năm 1894 (in lại lần thứ hai tại Huế năm 1907): Nguyễn Chại Da Huấn Ca. Trong bài tựa đề ngày 25/8/1894, dịch giả giới thiệu tác giả (Nguyễn Trãi) là quan tướng công chiều nhà Lê là Nguyễn Chại.

Năm 1906: nhà cách mạng Phan Chu Trinh diễn thuyết trước công chúng: nước Đại Nam chúng ta ngày nay sở dĩ hèn yếu là vì thiếu tinh thần tôn giáo. Tôn giáo luyện cho ta đức hy sinh coi nhẹ tánh mạng. Không có tinh thần tôn giáo, chúng ta không biết cương thường, xả thân vì nghĩa… chỉ bo bo giữ lấy cái lối riêng của mình. Nay bà con thử xét, đời Trần sao dân tộc ta hùng dũng như vậy: quân Nguyên thắng cả Á, cả Âu, nuốt trọn Trung Hoa mà qua nước ta thì bại tẩu. Nào cướp sáo ở Chương Dương độ, nào bắt trói ở Bạch Đằng, như vậy chẳng phải là nhờ đạo Phật ở nước ta thời đó thịnh ư, nhờ cái tinh thần tôn giáo của ta ư…?

        Các chiến sĩ của phong trào Cần Vương và Duy Tân như Lương Văn Can, Đào Nguyên Phổ, Võ Hoành, Nguyễn Quyền, Phan Bội Châu cũng tìm thấy ở lực lượng Phật giáo nước ta một chỗ dựa tin cậy để hoạt động (Biên Niên Sử Phật Giáo Gia Định – Sài Gòn TP Hồ Chí Minh, tr. 68).

        Một chủ trương đáng ca ngợi của các nhà nho Duy Tân là cố gắng hàn gắn sự chia rẽ lương giáo xảy ra trong thời Cần Vương (từ 1885). Phan Chu Trinh đi khắp Quảng Nam kêu gọi toàn dân đoàn kết vì chia rẽ chỉ gây thêm khổ đau cho dân tộc và có lợi cho thực dân. Nhờ đó không những làng Công giáo Trà Kiệu (huyện Duy Xuyên, Quảng Nam) không còn bị cô lập, tranh chấp đổ máu với các làng bên cạnh. Không những vậy, làng Công giáo Phước Kiều cũng ở huyện Duy Xuyên còn liên hệ với phong trào Duy Tân để mở trường Quảng Phước do một linh mục phụ trách và lập một cơ sở sản xuất đồ đồng. Phan Bội Châu cũng liên lạc với một số cha xứ để giải toả thành công mối hiềm khích lương giáo ngay khi ông phát hiện được.

Năm 1907: Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo số ra ngày 5 tháng 9 đăng bài ca Khuyên Người Khuyến Tu của Y Tục Tử, ẩn ý kích thích tinh thần yêu nước của đồng bào.

        Báo Lục Tỉnh Tân Văn số 1 tháng 11 đăng bài báo đề nghị “trả Phật cho Chà Và, trả Quan Công cho Chệt”. Sau đó toà báo nhận được nhiều ý kiến của bạn đọc phản bác luận điệu quá khích trên nhưng chỉ để bênh vực Quan Công, không có ý kiến nào bênh vực Phật hay phản bác ý kiến “trả Phật cho người Ấn”.

        Cuối năm, Huỳnh Công Thiệu viết bài Phá Ngục Luận đăng trên Lục Tỉnh Tân Văn, đả kích pháp môn ứng phú (thầy cúng), vì nhiều Tăng ni coi việc cúng kiếng, cầu an, cầu siêu… là việc Phật sự chính, tạo nên nguồn thu nhập quan trọng cho chùa. Tình trạng này kéo dài từ thế kỷ trước và tiếp diễn nhiều thập kỷ sau, được coi là một trong những đối tượng chính cần chấn chỉnh để Phật giáo có thể hưng thịnh.

Năm 1908: Lục Tỉnh Tân Văn số 7 (đầu năm 1908) đăng bài “Xả Cựu Tùng Tân” của cư sĩ Hồ Thành Chương kêu gọi canh tân cải cách Phật giáo. Lục Tỉnh Tân Văn số 11 cũng có bài đả kích tục làm chay phá ngục của khoa cúng kiếng (ứng phú) tại các chùa.

        Đại đức Tích Lan Dharmapala liên lạc với cư sĩ Dương Nhân Sơn ở Trung Quốc mời cộng tác trong việc chấn hưng Phật giáo thế giới. Trước đó khi Dharmapala chưa xuất gia, còn là cư sĩ David Hewavitarane, ông đã  kêu gọi trùng tu các Phật tích Ấn Độ. Sau đó, với sự ủng hộ tích cực của hai nhân sĩ Phật giáo là đại tá Hoa Kỳ Henry Steel Olcott và thi sĩ Anh Edwin Arnold, ông thành lập hội Mahabodhi Society, xuất bản tạp chí Phật học, thành lập trung tâm nghiên cứu Phật học và tu viện Phật giáo. Dharmapala cũng biên soạn nhiều sách dẫn giải Phật học tới nay vẫn còn được tái bản. Một số đã được cư sĩ Phạm Kim Khánh dịch ra tiếng Việt và Như Lai Thiền Viện (California) xuất bản tại hải ngoại trong vòng hơn 20 năm qua.

Năm 1910: Lê Văn Mưu khởi công xây dựng Nhà Lớn và truyền bá giáo lý mà sau này người dân địa phương gọi là đạo Ông Trần ở cù lao Núi Nưa (nay là đảo Long Sơn, cách Bà Rịa 7 km).

Lê Văn Mưu, người quận Giang Thành, Kiên Giang (nay thuộc xã Tân Khánh Hoà, thị trấn Hà Tiên). Năm 1900 sau khi cuộc khởi nghĩa chống Pháp ông tham gia bị thất bại, để lẩn tránh sự truy nã, ông cùng đồng bọn lên năm chiếc ghe lớn chạy trốn tới một đảo hoang, có nhiều rừng rậm và bốn bề nước mặn ngập các vùng đất thấp.

        Lê Văn Mưu thuyết phục và hướng dẫn đám người đi theo ông phát quang làm rẫy, đốn cây và bắt cá để lập làng tạo dựng cuộc đời mới. Ông thường cởi trần phát quang nên được gọi là ông Trần. Cuộc vận động của ông Trần có kết quả tốt đẹp nên chỉ ba năm sau, kho lúa của làng đã có dư đầy. Năm Giáp Thìn (1/5/1904) miền Tây Nam Bộ bị bão lụt nặng, trên 5 ngàn người ở Gò Công - Cần Giờ bị chết. Hai tháng sau vùng Gò Công lại bị bệnh dịch chết thêm hàng ngàn người nữa. Ông Trần sai chở gạo trong kho của làng đi cứu đói các nạn nhân bão lụt. Sau vụ này, nhiều người dân miền Tây xin đi theo ông tới cù lao Núi Nưa lập nghiệp. Những người mới tới được ông Trần cho mượn ruộng công (gọi là ruộng Nhà Lớn) để có lương thực trong buổi đầu, khi khai quang ruộng mới xong thì trả lại làng cho người tới sau dùng. Chế độ này được duy trì cho tới những năm gần đây.

        Ông Trần thường nhắc nhở dân làng các điều nhân-lễ-nghĩa-trí-tín-trung-hiếu. Ông dựa theo cuốn Lục Vân Tiên của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu làm căn bản cho những lời giảng. Khi xây Nhà Lớn, ông giảng giải thường xuyên hơn. Dù ông không tuyên bố khai đạo, không thu nhận đệ tử, cũng không chính thức công bố một loại kinh kệ nào, nhưng những lời giảng của ông được thế hệ cha mẹ truyền miệng cho con, ông bà truyền miệng cho cháu chắt nên tới nay 2/3 trên tổng số 13 ngàn dân của đảo Long Sơn tự nhận theo đạo ông Trần.  Tín đồ đạo ông Trần ngày nay vẫn thường mặc bà ba đen, để tóc dài búi củ hành sau ót. Họ duy trì một số tập tục đặc biệt về quan hôn tang tế thích nghi với hoàn cảnh sống khó khăn buổi đầu nên yếu tố mê tín gần như bị loại bỏ. Đám cưới luôn luôn cử hành vào hai ngày trong tháng là mùng một và 16 âm lịch, bắt đầu vào giờ Thìn (7 tới 9 giờ sáng). Khi chết rồi thì mọi người đều bình đẳng, dùng chung một quan tài. Tang gia tới Nhà Lớn mượn quan tài đem về tẩm liệm người chết. Khi ra mộ, người chết được quấn chiếu cói chôn dưới đất, quan tài đem trả lại Nhà Lớn cho người khác dùng khi cần. Cho tới nay, có nhiều người tình nguyện xuất gia tu ba ngày tại Nhà Lớn gọi là trực phiên. Mỗi năm như vậy có 340 người tình nguyện 68 trực phiên. Trực phiên là tới ở hẳn trong Nhà Lớn ba ngày liên tiếp để tu tâm dưỡng tánh, lo việc quét dọn, tu sửa và cúng lễ.

        Nhà Lớn được ông Trần khởi công năm 1910, hoàn tất năm 1929. Đây là một quần thể kiến trúc quy mô làm bằng gỗ và nứa, còn được bảo quản gần nguyên vẹn cho tới nay., gồm có: nhà khách, lầu cấm, nhà Thánh, lầu giữa, lầu dài, lầu Tiên, lầu Phật, nhà hậu, nhà hội. Lầu Cấm thờ Phật năm ông. Mặc dù không có tài liệu về sự thờ phượng trong khu Nhà Lớn, nhưng qua các tên gọi nhà Thánh, lầu Tiên, lầu Phật chúng ta cũng có thể đoán được đạo ông Trần là một hình thức hoà hợp Phật-Lão-Nho, một loại Phật giáo dân gian. Ở chánh điện Nhà Lớn, nơi Lê Văn Mưu thường giảng đạo, có trưng bày bản Lục Vân Tiên chữ Nôm viết trên lụa.

Năm 1912: sư Thái Hư phát động phong trào Chấn Hưng Phật giáo tại Trung Quốc, bắt đầu bằng việc thành lập Phật học viện Vũ Xương và xuất bản tạp chí Phật Học. Sau đó, theo đà phát triển các tổ chức Hiệp Hội Tăng Giáo Dục, Phật Giáo Hiệp Tiến, Phật Học Tổng Hội, Phật Giáo Liên Hiệp và Phật Giáo Cư Sĩ Lâm được thành lập.

Tuy nhiên phải đợi tới năm 1918, khi sư Thái Hư xuất bản tạp chí Giác Xã, sau đổi tên thành Hải Triều Âm, ảnh hưởng của phong trào Chấn Hưng Phật giáo Trung Quốc mới lan tới nước ta, trước tiên qua những người Hoa ở Chợ Lớn. Điều này cho thấy ảnh hưởng quan trọng của báo chí đối với phong trào chấn hưng Phật giáo. Mãi tới năm 1927, sư Thiện Chiếu mới đem tờ Hải Triều Âm ra miền Bắc và Trung giới thiệu với các Tăng sĩ. Cũng năm 1927 sư Khánh Hoà mới giới thiệu điều lệ của hội Phật Giáo Trung Hoa.

Năm 1914: Hội Đô Thành Hiếu Cổ bắt đầu cho phổ biến trên tập kỷ yếu của hội (Bullein des Amis du Vieux Hué, thường gọi tắt là BAVH) bài nghiên cứu của học giả Cadière về chùa Báo Quốc ở Huế. Bài này  và các bài tiếp theo về các ngôi chùa ở Huế, trước khi đăng đã được các tác giả trình bày trong các buổi họp thường kỳ của hội trước toàn thể hội viên.

Năm 1920:  trước tình trạng Phật giáo suy đồi (Tăng đồ thất học, thiếu đoàn kết, giới luật tại các tự viện không nghiêm minh) sư Tuệ Tạng cùng các sư trú trì chùa Dương Lai, Duyên Bình và Quế Phương ở Nam Định thành lập Hội Tiến Đức Cảnh Sách để huấn luyện Tăng ni không phân biệt xuất xứ từ sơn môn nào. Hội đặt trụ sở tại chùa Quế Phương. Sư Tuệ Tạng giữ chức giáo sư luật học trong hội.

        Sư Tuệ Tạng (1889-1959), pháp danh Tâm Thi, thế danh Trần Thanh Huyên, là người rất chú trọng về giới luật, được Tăng chúng ca ngợi là nhớ luật và trì luật bậc nhất trong Tăng già miền Bắc. Ông xuất gia năm 14 tuổi, thọ giới sa di năm 1905, thọ giới tỳ kheo năm 1909. Năm 1950, ông được tôn cử làm Chứng Minh Đạo Sư hội Việt Nam Phật Giáo (miền Bắc). Năm 1951, Tổng Hội Phật Giáo được thành lập, thống nhất 6 đoàn thể Tăng già và cư sĩ Phật giáo ba miền, trụ sở đặt tại chùa Từ Đàm ở Huế. Ông được đề cử làm Chứng Minh Đạo Sư của Tổng Hội. Năm sau, ông được đề cử làm Thượng Thủ Tăng Già toàn quốc trong Đại Hội Tăng Già họp tại chùa Quán Sứ (Hà Nội) ngày 7/9/1952. Sau khi đất nước chia đôi năm 1954, ông không còn giữ chức vụ nào trong Giáo Hội Phật Giáo, về chùa Vọng Cung (Nam Định) tịnh tu và viên tịch tại đây năm 1959.

Ông dịch, chú giải và biên soạn nhiều sách về giới luật như Tại Gia Tu Hành, Kinh Phạm Võng Giải, Sa Di Luật… Năm 1953, nhân danh Thượng Thủ Tăng Già toàn quốc, ông phổ biến Lá Tâm Thư kêu gọi Tăng ni và Phật tử góp sức chung lòng trung hưng Phật giáo như thời Lý Trần ngày xưa.

Năm 1923: Tại Nam Kỳ, hội Lục Hoà Liên Xã do các sư Huệ Quang, Khánh Hoà và Khánh Anh khởi xướng, nhằm tạo điều kiện cho các vị trong giới Tăng già ưu tư về sự suy thoái của Phật giáo nước ta có cơ hôi gặp gỡ nhau để bàn bạc việc chấn hưng Phật giáo qua ba nỗ lực: chỉnh đốn Tăng già, lập Phật học đường, dịch và xuất bản các kinh sách bằng chữ Quốc ngữ. Hội Lục Hoà đặt trụ sở tại chùa Long Hoà ở Trà Vinh, do sư Huệ Quang trú trì. Hội tổ chức họp Tăng già luân phiên mỗi kỳ tại một chùa để gây tình đoàn kết. Sư Từ Phong (1864-1938, trú trì chùa Từ Lâm ở Gò Kén, Tây Ninh) thường được mời làm Pháp Sư thuyết giảng trong những buổi hội chúng này. Sử gia Nguyễn Lang (Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập 3) cho rằng hội Lục Hoà Liên Xã là viên đá đầu tiên của phong trào Chấn Hưng Phật Giáo ở Nam Kỳ.

        Tờ Đông Pháp Thời Báo mở đề mục Phật Giáo Lược Khảo đăng nhiều bài báo chủ yếu kêu gọi cải tổ Phật giáo liên tục trong hai năm 1923-1924. Từ số 59 (5/10/1923) tới số 69  đăng loạt bài Lược Khảo Cách Tu Trong Đạo Phật của Viên Hoành, số 70 (5.11.1923) và các số sau đăng bài Phật Giáo Khảo Lược ký Đ.P.T.B., số 100 có bài Ảnh Hưởng Của Phật Giáo Khảo Lược. Chuyên đề Phật Giáo Lược Khảo nói trên giới thiệu nguồn gốc, nội dung giáo lý và lịch sử Phật giáo được viết bằng lối văn phân tích dản dị, dễ hiểu đã gợi được sự chú ý của nhiều độc giả.                         

        Tại Bắc Kỳ hai bộ phim về Phật giáo được quay. Bộ phim Sous L’oeil de Bouddha (Dưới mắt Phật) do Lepeintre thực hiện dài 48 phút gồm 5 đoạn kể câu chuyện về chàng trai trẻ tên Lý say mê sân khấu và cũng say mê con gái của quan huyện, trải qua bao khó khăn mới chinh phục được trái tim của nàng. Bộ phim Aux Environs de Hanoi: À Travers La Campagne Tonkinoise Bouddhas et Genies dài 15 phút giới thiệu 12 ngôi chùa và đền miếu ở Hà Nội (trong đó có chùa Một Cột, chùa Từ Đạo Hạnh, chùa Trấn Quốc…).

Năm 1924: Đêm 18 tháng 6, Phạm Hồng Thái (1896- 1924), thuộc tổ chức cách mạng Tâm Tâm Xã tại Quảng Châu, âm mưu ám sát toàn quyền Đông Dương là  Martial Merlin khi ông này cùng đoàn tùy tùng tới dự tiệc tại khách sạn Victoria ở Sa Diện (Quảng Châu, Trung Quốc). Nhà chí sĩ họ Phạm giả làm phóng viên, dấu bom trong máy ảnh khi tới đám tiệc. Ông liệng được bom, nhưng toàn quyền Merlin chỉ bị thương nhẹ. Bị cảnh vệ Trung Quốc rượt đuổi, ông chạy tới sông Châu Giang thì cùng đường, bèn nhẩy xuống sông tự trầm. Ông được chôn tại gò Hoàng Hoa Cương ở Quảng Châu, là nơi an nghỉ dành riêng cho 72 liệt sĩ cách mạng dân quốc của Trung Hoa.

        Sự thất bại của Phạm Hồng Thái xảy ra vào lúc Nguyễn Thượng Hiền đến Trung Quốc sau nhiều kế hoạch vận động quốc tế chống Pháp không thành, càng làm nhà chí sĩ họ Nguyễn ngao ngán chính trị. Ông tới Hàng Châu, xin cạo đầu xuất gia tại chùa Thường Tịch Quang. Ông bị bệnh và tịch ngày 28/12/1925 tại chùa. Theo lời trối trăn của ông, nhà chùa hỏa thiêu và rải tro xác ông xuống sông Tiền Đường. Ông để lại hơn 600 bài thơ nội dung đầy nhiệt tình cách mạng mà Phan Bội Châu ca ngợi là “thơ kiểu Thịnh Đường, văn khuôn Tiền Hán”. Ông còn viết tập luận thuyết bằng chữ Hán “Hợp Quần Doanh Sinh Thuyết” và hai bài phú quốc ngữ có rất nhiều câu thành ngữ, tục ngữ (Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam, tr. 658).

Nguyễn Thượng Hiền (1868-1928) là cháu ngoại Tôn Thất Thuyết, đỗ đầu kỳ thi Hội năm 17 tuổi (1885). Năm 1907, sau khi chịu tang cha, ông sang Nhật theo phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng. Từ đó ông sát cánh bên Phan Bội Châu trong các họat động cách mạng cứu nước. Trong nỗ lực này, năm 1915 ông qua Thái Lan liên lạc đại sứ Đức và Áo để xin trợ giúp chống Pháp. Thế chiến I chấm dứt năm 1918, Đức và Áo thuộc phe bại trận, Pháp thuộc phe thắng trận nên kế hoạch trên của ông không thành.

Năm 1925: Các buổi diễn thuyết chính trị của Nguyễn An Ninh và Phan Chu Trinh tại Sài Gòn (thường tại trụ sở hội Bắc Kỳ Ái Hữu) có đông người tham dự, trong đó có các nhà sư. Phong trào biểu tình trong cả nước có nhiều học sinh tham dự, tranh đấu với nhà cầm quyền Pháp đòi trả tự do cho nhà cách mạng Phan Bội Châu, cũng có sự hiện diện của các nhà sư. Nhà cầm quyền Pháp chấm dứt giam giữ Phan Bội Châu chuyển qua chế độ giam lỏng, cho ông tạm trú một thời gian ngắn tại chùa Bảo Quang ở Huế.

        Để trả lời thay cho những nhà sư bị mật thám Pháp tra hỏi khi bị bắt vì tham dự vào những vụ trên: Ai xúi thầy chùa đi biểu tình?, sư Thiện Chiếu, giáo thọ chùa Linh Sơn ở Sài Gòn, viết một bài nêu quan điểm: Thuyết từ bi cứu khổ của Phật Tổ xúi Phật tử tham gia những cuộc yêu nước thương dân, chứ không ai xúi cả!

Năm 1926: Ngày 24 tháng 3 nhà cách mạng Phan Chu Trinh từ trần, hưởng thọ 55 tuổi. Trong số hàng trăm đối trướng phúng điếu ông của mọi tầng lớp dân chúng cả ba miền đất nước, các câu đối của giới Tăng sĩ ca ngợi công đức ông tương đương như một đại cao Tăng mặc dù trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, ông không một lần ca ngợi Phật giáo, cũng chẳng tham gia vào việc xây chùa-đúc tượng-in kinh. Thế Nguyên trong tập biên khảo Phan Chu Trinh ghi lại một số đối trướng đó như sau:

        Câu đối của chư Tăng chùa Nam Sơn, Sóc Trăng: Tiên sinh chân giác thế cao Tăng, cứu cánh từ bi kiêm trí huệ - Hậu nhân ngưỡng cộng hoà pháp toạ, vô biên công đức đẳng hà sa.

        Câu đối của chư Tăng chùa Long Khánh ở Trà Vinh: Nhị thập niên mộ cổ thần chung, cảnh tỉnh ái hà chuyên chế quỷ - Thiên vạn lý trì vận sậu vũ, hô hào trần hải mộng mê nhân.

        Câu đối của một vị hoà thượng tu trên núi: Kỷ phiên khổ hải hà sa, độ tận chúng sinh siêu giác ngạn - Thử nhật Linh sơn viên tịch, ma kha thất tội tấu Diêm vương.

Ngày 28 tháng 9 Hội Thánh Cao Đài làm đơn lên Thống Đốc Nam Kỳ xin khai đạo. Ngày 7 tháng 10 đạo Cao Đài chính quyền Bảo Hộ chính thức cho phép đạo Cao Đài hoạt động trong phạm vi Nam Kỳ. Trước đó trong buổi cầu cơ do Phạm Công Tắc chủ xướng đêm 24/12/1925, cơ giáng cho biết: Đức Chí Tôn chọn lựa làm nguyên nhân khai mở đạo.

Theo Quách Tấn: người Pháp cho rằng đạo Cao Đài là một hiện tượng thuần túy Nam Kỳ (strictement Cochinchinois) nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh của cư dân vùng đồng bằng sông Cửu Long, nên ban đầu chỉ cho phép hoạt động ở Nam Kỳ nhưng không cho hoạt động ở Bắc và Trung Kỳ. Vua Bảo Đại cũng ban hành một sắc dụ cấm truyền đạo Cao Đài tại Trung Kỳ. Mãi tới năm 1938 nhờ sự can thiệp của bộ Thuộc Địa Pháp, đạo Cao Đài mới được phép truyền đạo ở miền Trung, điểm khai đạo là Tam Quan - Bình Định. Tuy nhiên khi thế chiến thứ II bùng nổ, chính quyền Pháp cho rằng Cao Đài thân Nhật nên năm 1941 ra lệnh đóng cửa các thánh thất, chiếm đóng toà thánh Tây Ninh và bắt tập trung thành phần truyền đạo. Sau khi Nhật đảo chánh Pháp, các chức sắc Cao Đài được thả về và họ phục hưng nhanh chóng sinh hoạt của đạo (Nước Non Bình Định, tr. 463).  

Thành phần trụ cột trong thời kỳ khai đạo là những nhân sĩ có trình độ và uy tín tại địa phương nên đạo Cao Đài đã nhanh chóng thu hút được nhiều tín đồ. Đệ tử đầu tiên của đạo Cao Đài là ông Phủ (đốc phủ sứ) Ngô Văn Chiêu được đức Cao Đài thâu nhận làm đệ tử tại đàn cầu cơ ngày 26.10.1920 trên núi Dương Đông, Phú Quốc.

Ban đầu thành phần sáng lập đạo Cao Đài dự định mời sư Từ Phong (1864-1938) làm Thái Chưởng Pháp (chức sắc đạo đứng đầu phái Phật gọi là phái Thái, một trong ba phái của đạo Cao Đài, mang y màu vàng). Theo một tài liệu của đạo Cao Đài, ban đầu ông chấp nhận nhưng sau đổi ý, chỉ cho mượn chùa Từ Lâm (Gò Kén, Tây Ninh) để làm lễ khai đạo trong 4 tháng. Lễ khai đạo Cao Đài và thiết đàn cầu cơ được tổ chức trọng thể tại chùa Từ Lâm từ rằm tháng 10 năm Bính Dần (1926) tới rằm tháng giêng năm Đinh Mão (1927).

Sư Từ Phong, thế danh Nguyễn Văn Tường, pháp danh Như Nhãn, pháp hiệu Từ Phong, phái Lâm Tế dòng Đạo Mẫn đời 39, xuất gia năm 16 tuổi với sư Minh Đạt (tục gọi Yết ma Lượng) tại chùa Từ Lâm (châu thành Tây Ninh) sau khi được biết cha mẹ chuẩn bị cưới vợ cho mình.

Theo Thích Đồng Bổn: sư Từ Phong là một nhà sư tinh thông kinh điển, giỏi biện thuyết. Trong khoảng các năm 1920-1925) Phật tử tại các tỉnh Vĩnh Long, Mỹ Tho, Gò Công… hiến cúng ông khoảng 20 ngôi chùa tư nhân. Thống đốc Nam Kỳ Doumergue và thiếu tá hải quân Pháp Lamacs cũng tôn kính đức độ của ông. Vì vậy ông đã được mời qua Nam Vang giảng pháp cho hoàng gia Kampuchia. Để bày tỏ lòng khâm phục nhà sư, vua Norodom thỉnh ông xuống tóc cho nhà vua vào chùa tu hạn kỳ theo tục lệ Kampuchia. Đây là một ngoại lệ chưa từng có tại nước này vì sư Từ Phong là nhà sư Bắc Tông và Phật giáo Kampuchia theo Nam tông. (Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam Thế Kỷ 20, tập 1).

Theo tài liệu của đạo Cao Đài do Dã Trung Tử sưu tầm: ban đầu  sư Từ Phong và các đệ tử của ông gia nhập đạo Cao Đài. Ông hy vọng với chức chưởng Thái Chưởng Pháp, ông sẽ thuyết phục dược các chức sắc lãnh đạo Cao Đài theo Phật giáo và giúp hoàn thành chùa Từ Phong trở thành một trung tâm Phật giáo quy mô lớn. Nhưng chỉ trong 3 tháng khai đạo tại Gò Kén, tín đồ đạo Cao Đài đã lên tới 400 ngàn, trong khi dân số Tây Ninh trước đó chỉ khoảng 10 ngàn người. Vì vậy các nhà sư Phật giáo trong vùng làm áp lực, cộng thêm áp lực của người Pháp không muốn công khai ra mặt cấm đạo Cao Đài, buộc sư Từ Phong phải đòi lại chùa Từ Lâm. (trang web www.datviet.com, Lược Sử Khai Nguyên Đạo Cao Đài) Chùa Giác Hải ở Gia Định hiện còn tàng trữ nhiều tác phẩm chữ Nôm của sư Từ Phong.

Năm 1927: Theo Trần Văn Giàu, sau khi được Pháp thả vào tháng 1/1927, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh (1900-1943) dường như tìm đến Phật pháp để tự an ủi. Trên bàn giấy của ông có để chuông và mõ. Có lúc ông cạo đầu và đi chân đất như thể nhà sư khất sĩ. Nguyễn An Ninh nghiên cứu Phật pháp qua các tác phẩm tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Đức và qua tiếp xúc thực tế với các sanh hoạt Phật giáo. Là con người chính trị tích cực, sau một thời gian ngắn nghiên cứu Phật giáo, ông nhận xét: Đạo Phật bày ra các thứ phương tiện duy tâm, cá nhân vô hiệu quả để làm lầm lạc con người. Vì vậy, ông qua Pháp tiếp tục hoạt động chính trị và học tiếp chương trình tiến sĩ Luật. Năm 1928, ông trở về nước tiếp tục hoạt động chính trị chống Pháp. Cuối năm 1928, ông bị nhà cầm quyền Pháp kết án 3 năm tù vì tổ chức hội kín Nguyễn An Ninh.

Tháng 5, sư Khánh Hoà phái sư Thiện Chiếu ra Bắc để vận động chư Tăng Bắc Việt chấn hưng Phật giáo theo đề xuất của hội Lục Hoà. Là một nhà sư trẻ làm giáo thọ rồi trụ trì chùa Linh Sơn ở Sài Gòn, có căn bản tân học và Phật học, khả năng biện thuyết cao và nhiều nhiệt huyết canh tân Phật giáo, ông tiếp xúc với hầu hết các tổ đình miền Bắc như Linh Quang, Hồng Phúc, Tiên Lữ… Có thể vì ông trẻ tuổi chú trọng nhiều vào hành động, lại có quan điểm canh tân cấp tiến tới mức quá khích nên không đạt được thành quả nào trong chuyến du thuyết vận động này. Ông chủ trương Phật giáo phải cởi bỏ cái lốt tôn giáo để trở thành một lối sống, Tăng sĩ phải bỏ hình thức “đầu tròn áo vuông”, nên thiết lập chế độ “tân Tăng” như ở Nhật, nghĩa là nhà sư không cần cạo trọc đầu, có thể lấy vợ hay không và tham gia vào cách mạng xã hội. Ngay từ năm 1924, ông cho treo đôi câu đối trước cửa chùa Linh Sơn (quận 1, Sài Gòn, nơi ông trụ trì): Phật pháp thị nhập thế nhi phi yếm thế - Từ bi nãi sát sanh dĩ độ chúng sanh (dịch: Phập pháp nhập thế không yếm thế -Từ bi có thể sát sanh để độ chúng sanh). Ông cũng nêu lên quan điểm: Thuyết từ bi cứu khổ của Phật tổ cho phép nhà sư tham gia các cuộc biểu tình chống Pháp. Với quan điểm thiên về hoạt động quá khích, sau này Thiện Chiếu gia nhập và tích cực trong những hoạt động bạo động của đảng Cộng Sản, bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo rồi hoàn tục, lấy vợ và có con.

Tháng 7, chùa Giác Hoa ở Bạc Liêu tổ chức lớp gia giáo cho khoảng 100 ni chúng. Đây là lớp giảng dạy Phật pháp đầu tiên cho Ni giới nước ta, do HT Phi Lai Chí Thiền chủ trì.     

Nhà xuất bản Thạnh Mậu (ban đầu có tên là Thạnh Thị Mậu) chuyên xuất bản cách sách về Phật học bằng quốc ngữ được thành lập ở Sài Gòn. Cơ sở tư nhân này hoạt động liên tục cho tới thời đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa. Các kinh tụng bằng quốc ngữ đầu tiên đều do nhà Thạnh Mậu in và phát hành. Nên biết năm 1929, sư Khánh Hoà còn đi các nơi kêu gọi nên diễn dịch và xuất bản kinh sách bằng quốc ngữ.

***

Những diễn tiến trình bày theo thứ tự thời gian nêu trên cho thấy Phật giáo nước ta cuối thập niên 1920 đã như một thửa đất được tứ chúng đóng góp công đức liên tục cày bừa và dẫn thuỷ để sẵn sàng cho những hạt giống chấn hưng Phật giáo nảy mầm, đâm chồi mau lẹ.

Thời kỳ Tiền Chấn Hưng này phải được coi là một thời kỳ lịch sử hào hùng và sinh động của Phật giáo nước ta: mầm sống Phật giáo được tứ chúng vun bồi, đã vươn lên mạnh mẽ trong hoàn cảnh thương khó của đất nước và sự đàn áp nghiệt ngã của cả chính quyền thực dân Pháp lẫn vương triều Nguyễn. Qua sự khai sáng các giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và đạo Ông Trần, qua việc các nhà sư ca ngợi công đức của nhà cách mạng Phan Chu Trinh như một đại danh Tăng, qua sự tham gia tích cực vào các cuộc khởi nghĩa chống Pháp của các nhà sư và qua nỗ lực hoà hợp lương-giáo đạt được thành công của các nhà nho Duy Tân, mái chùa thời Tiền Chấn Hưng thực sự nhập vào dòng chảy của lịch sử dân tộc. Nó mang dấu ấn dân tộc và do đó được che chở bởi hồn dân tộc.

Bài học có thể nhận ra không mấy khó khăn từ thời kỳ này: khi mái chùa mang dấu ấn dân tộc, thì không pháp nạn nào có thể làm suy yếu nổi Phật giáo nước ta.   

TRẦN TRI KHÁCH

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Nguyễn Long Thành Nam, Đạo Hoà Hảo Trong Lòng Lịch Sử Dân Tộc, ấn bản điện tử trong trang web www.hoahao.org

- Thành Hội Phật Giáo TP Hồ Chí Minh, Biên Niên Sử Phật Giáo Gia Định- Sài Gòn- TP HCM (1600-1992), nxb Thành Phố HCM, 2001.

- Độc Đáo Long Sơn, Nhân Dân online ngày 21.4.2005.

- Thế Nguyên, Phan Chu Trinh, Tân Việt, Sài Gòn 1956.

- Dã Trung Tử sưu tầm, Lược Sử Khai Nguyên Đạo Cao Đài, trang web www.datviet.com.

- Quách Tấn, Nước Non Bình Định, nxb Thanh Niên in lại, Hà Nội 1999.

- Nguyễn Văn Huy, Cộng Đồng Người Chăm tại Kampucia, www.thongluan.org 16.8.2005.

- Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, Lịch Sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884, nxb TP Hồ Chí Minh, 2000.

- Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm, Lịch Sử Phật Giáo Xứ Huế, nxb TP HCM, 2001.

- Trần Hồng Liên, Phật Giáo Nam Bộ từ thế kỷ 17 đến 1975, nxb TP HCM, 1996.

- Thích Đồng Bổn, Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam Thế Kỷ 20 tập 1, Thành Hội Phật Giáo TP HCM,  1996.

- Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận tập 3, Lá Bối in lần thứ 2, San Jose California 1993.

- Nguyễn Duy Hinh, Tư Tưởng Phật Giáo Việt Nam, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1999.

- Nguyễn Tài Thư chủ biên, Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1991.

- Nguyễn Q. Thắng – Nguyễn Bá Thế, Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam, in lần thứ tư, nxb Văn Hóa, TP HCM 1997.

 

       

 
 
simple stats
lượt đọc kể từ Mùa Phật Đản 2552 - 2008