Hải Ngoại và Dòng
Sinh Mệnh Phật Giáo
Đào Văn Bình
Trước đây người
Việt đã có mặt trên khắp thế giới - đặc biệt tại
Mỹ, Pháp, Đức, Úc, Nga, Đông Âu, v.v… là do các
chương trình du học hoặc làm việc trong các tòa
đại sứ hoặc đi lính cho Pháp từ thời Thế Chiến
I, nhưng con số không nhiều. Chỉ từ sau năm 1975
con số bỗng vọt lên tới trên 3 triệu do các đợt
“di tản”, “thuyền nhân” (Boat People), “đoàn tụ
gia đình” và “hợp tác lao động”.
Trái với người Da
Đen ở Phi Châu bị bán qua Hoa Kỳ hoặc qua các
thuộc địa của các Đế Quốc Anh, Pháp, Ý, Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Hòa Lan, v.v.. để làm nô lệ họ
không có gì để mang theo ngoài sức lao động. Lúc
đó, những người Da Đen này chỉ là những thổ dân
sống trong các bộ lạc, chưa hình thành một quốc
gia với kỷ cương và nhất là một nền văn học, văn
hóa và tâm linh (tôn giáo) thịnh trị, cho nên họ
bị đồng hóa ngay với tôn giáo và văn hóa bản địa.
Giống như người Trung Hoa và Nhật Bản, Thái Lan,
Lào, Kampuchia, Miến Điện, người Việt khi đi ra
nước ngoài đã mang theo cả phong tục tập quán,
văn hóa, lịch sử và nhất là tôn giáo như Phật
Giáo - đã thấm vào xương tủy gần hai nghìn năm.
Phải nói, thân
phận của những người Việt trong những ngày đầu
mới định cư thật cay đắng. Họ phải làm đủ mọi
nghề để sinh sống… như bồi bàn, rửa chén, lau
chùi quét dọn nhà cửa, bán xăng cho các trạm
xăng, may quần áo, khá hơn một chút thì làm
‘assembler’ (thợ lắp ráp điện tử)… Nói tóm lại -
tất cả là những nghề gì thuộc tay chân mà không
cần đến tiếng Tây, tiếng U gì ráo trọi. Có khi
cả vợ chồng con cái phải thức hôm thức khuya để
cầm những chiếc “súng bắn nhựa nóng” (glue gun)
để gắn những bông hoa, những mảnh vải, những nút
áo, v.v… mà công lao nhà thầu chỉ trả 2 hay 3 xu
(cent) một cái. Thế rồi ban ngày phải đi học
thêm và hầu như họ không có ngày Thứ Bảy, Chủ
Nhật hay ngày lễ. Hầu hết những người thành công
về mặt học vấn, thương mại tuổi ngoài sáu mươi
tại Hoa Kỳ hôm nay, đều đã trải qua những giai
đoạn gian khổ như thế. Còn về đời sống, muốn ăn
nước mắm có khi phải lái xe khoảng 40 dặm (trên
60km) để vào những siêu thị của người Tàu. Ngày
nay những người “sang sau” hoặc từ Việt Nam du
lịch sang Hoa Kỳ hoặc Úc Châu, thấy chùa chiền
và đời sống phồn thịnh, sẽ không hiểu nổi những
gian nan của người Việt trong những ngày đầu vào
những năm 1975-1980.
Sống trong lòng
một xã hội xa lạ về ngôn ngữ, tập quán, văn hóa
mà chung quanh là một dòng chính, khoảng 75% là
Ca-tô Giáo La Mã (Roman Catholic), Ca-tô Giáo Ly
Khai (Protestant) và Do Thái Giáo - gọi chung là
Christianity - với sức cuốn hút hừng hực mà khối
người này không mất gốc Phật Giáo…thật là chuyện
phi thường. Nó phi thường ở chỗ lúc đó chưa có
Chùa, chưa có Thầy mà chỉ có “Ông Phật trong tâm”
và dòng máu Phật Giáo, dòng máu Việt âm thầm
luân lưu trong huyết quản. Nói tóm lại trong Tam
Bảo chỉ còn Phật Bảo. Còn Tăng Bảo và Pháp Bảo
thì không có.
Nói về những gian
nan của Phật Giáo hải ngoại trong những ngày đầu,
vào thập niên 1980,
có những
Đại Đức trẻ ban ngày phải đi làm để kiếm sống
trả tiền thuê chùa (nhà), rồi học part-time (bán
thời gian) để trau dồi thêm kiến thức. Chùa
đóng cửa cả tuần, có khi chỉ mở ngày Thứ Bảy hay
Chủ Nhật hoặc những ngày lễ của Hoa Kỳ. Một số
chùa do Phật tử thành lập lại không có thầy.
Tới một
ngôi chùa mà không thấy Tăng ni thì nó lạnh lẽo
và buồn chẳng khác nào “Con không cha, nhà không
nóc”. Trong nỗ lực phi thường đó, Phật Học
Viện Quốc Tế (Nam California) có lẽ là cơ sở
Phật Giáo đầu tiên tại hải ngoại.
Còn đối với hàng
cư sĩ và Phật tử, sau khi đã tạm ổn định đời
sống, thì nhu cầu tâm linh, tu học, làm sống lại
Phật Giáo và cũng là để giữ gìn bản sắc dân tộc
sống dậy như một thôi thúc. Một người Việt Nam
qua Mỹ, Âu Châu, Úc Châu, Canada có đi lễ nhà
thờ thì chuyện đó chẳng lạ dưới con mắt người
bản xứ. Nhưng cũng người Việt Nam đó qua đây lại
đi lễ chùa, ăn chay, cúng giỗ ông bà tổ tiên,
giữ gìn đạo hiếu (qua Lễ Vu Lan) và thờ “Buddha”
vẫn còn xa lạ với đất nước họ thì đó mới là
chuyện lạ.
Còn các cựu huynh
trưởng Gia Đình Phật Tử dù mái tóc đã bạc, cũng
vén tay áo vun trồng, gầy dựng lớp măng non
trong bộ áo lam. Các nhóm Phật tử, các hội cư sĩ,
nguyệt san, đặc san, chương trình phát thanh,
sau này là các website, blog, băng CD, kinh sách
phát không xuất hiện khắp nơi và hàng cư sĩ đóng
góp mạnh mẽ vào sinh hoạt Phật sự, hộ pháp, luận
giải kinh điển, phiên dịch…phải nói là rất nhiều,
trong đó phải kể tới những tên tuổi như Cố GS.
Nguyễn Đăng Thục, Cụ Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng,
BS Nguyễn Văn Thọ, Cụ Bảo Thông Lê Thái Ất, GS.
Tiến Sĩ Thái Sơn (Viện Trưởng Đại Học Đông
Phương, Pháp), dịch giả Phạm Kim Khánh, Cư Sĩ
Trần Quang Thuận, Cư Sĩ Thiện Phúc tác giả cuốn
Từ Điển Phật Học Việt-Anh (1) mà tôi nghĩ rằng
phải để ra ít nhất từ 15 tới 20 năm để hoàn tất.
Và còn rất nhiều “Bồ tát tại gia” khác đã đóng
góp không mệt mỏi cho đạo pháp mà không ai có
thể biết hết. Trong số này phải kể thêm những vị
điều hành các website, nội dung không phải 100%
Phật Giáo nhưng đã có tới 1 triệu lượt độc giả
thăm viếng.
Nhưng một trong
những cư sĩ mà tôi đề cập sau đây, lại thuộc thế
hệ con hay em của các cây cổ thụ nói trên, đó là
Cư Sĩ Nguyên Giác Phan Tấn Hải. Phan Tấn Hải
sinh năm 1952 tại Sài Gòn, vừa là một nhà báo,
một nhà thơ, đã từng học đạo với quý Hòa Thượng
Thích Tịch Chiếu (Chùa Tây Tạng, Bình Dương),
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm (Đại Ninh, Lâm Đồng)
và Hòa Thượng Thích Tài Quang (Phú Nhuận, Sài
Gòn), là tác giả và dịch giả của một số sách
Phật Giáo như: Vài Chú Giải Về Thiền Đốn Ngộ
xuất bản năm 1990, Thiền Tập (biên dịch), Ba
Thiền Sư của John Stevens, Chú Giải Về Phowa của
Chagdud Khadro và Lời Dạy Tâm Yếu Về Đại Thủ Ấn.
Vào ngày 31/7/2010 anh cho triển lãm 42 bức
tranh vẽ chân dung Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Nam
Cali nhân sinh nhật thứ 75 của Ngài. Vào Tháng
12 cùng năm, anh cho xuất bản ba cuốn sách song
ngữ: 1) Những Lời Dạy Của Từ Các Thiền Sư Việt
Nam Xưa là một tập hợp bao gồm những bài pháp,
bài thơ và kệ của các thiền sư trải dài 16 thế
kỷ, từ Thế Kỷ 3 tới Thế Kỷ 19 mà anh dịch ra Anh
Ngữ và bình chú dưới tựa đề Teaching From
Ancient Vietnamese Zen Masters. 2) Tuệ Trung
Thượng Sĩ (1230-1291) dịch ra Anh Ngữ và bình
chú với tựa đề The Wisdom Within: Teaching and
Poetry of the Vietnamse Zen Master Tue Trung
Thuong Si (1230-1291. 3) Trần Nhân Tông: Đức Vua
Sáng Tổ Một Dòng Thiền dịch ra Anh Ngữ và bình
chú với tựa đề Tran Nhan Tong: The King Who
Founded A Zen School. (2) Trong cả ba cuốn sách
này, nơi những trang đầu, anh đã bày tỏ lòng
biết ơn sâu xa “…đối với Thiền Sư Thích Thanh Từ,
GS. Tiến Sĩ Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Học Giả Trúc
Thiên, Sử Gia Trần Đình Sơn vì những công trình
nghiên cứu mà những tác phẩm này đã dựa vào đó
để tham khảo và bổn sư Thiền Sư Thích Tịch Chiếu.”
Đây là ba cuốn sách song ngữ đối chiếu trình bày
rất trang nhã, mỗi cuốn dày khoảng 200 trang,
lợi ích cho thế hệ trẻ Việt Nam không am tường
tiếng mẹ đẻ và cho các nhà nghiên cứu cũng như
Phật tử ngoại quốc muốn tìm hiểu về Thiền Tông
Việt Nam.
Khi nhận được ba
cuốn sách, tôi đã gọi điện thoại cũng như gửi
điện thư tán thán công đức và ca ngợi khả năng
dịch thuật của anh. Dịch thơ Việt sang Anh, Pháp
đã khó mà dịch thơ Thiền và kệ tụng lại càng khó
hơn, bởi ý thơ Thiền mông lung, huyền diệu và
rất nhiều ẩn dụ. Để nguyên tiếng Việt cũng đã
khó hiểu huống hồ dịch sang ngoại ngữ. Tôi nghĩ
rằng anh đã hoàn thành những tác phẩm này – nói
theo thế thường – như đam mê của một nghệ sĩ.
Còn nói theo ý đạo - như một hạnh nguyện xiển
dương chánh pháp mà Thiền Tông đang được thế
giới coi như viên kim cương của Phật Giáo với
muôn ngàn màu sắc.
Qua những đóng
góp của hàng cư sĩ tại gia cho Phật Giáo, chúng
ta có thể ví:
Phật tử
như gốc, Tăng ni như thân cành, còn cư sĩ thì
như hoa trái. Cây mất gốc tức không tín đồ,
thì cây đổ. Cây không thân cành là cây chết vì
chỉ còn trơ gốc rễ. Nhưng cây không hoa trái là
cây không đẹp. Ba yếu tố này không thể tách rời
nhau, đó là nét đặc thù của Phật Giáo.
Nhưng câu hỏi đặt
ra ở đây là tại sao tôi lại có ý phân biệt giữa
Phật Tử và Cư Sĩ? Họ khác nhau như thế nào? Xin
thưa, Phật tử là những tín đồ bình thường. Họ có
thể là quý cụ, quý ông quý bà, thanh niên, thiếu
nữ hoặc các đoàn sinh Gia Đình Phật Tử, Câu Lạc
Bộ Thanh Thiếu Niên Phật Tử quanh năm sinh hoạt,
đi lễ chùa. Họ cũng có thể một năm chỉ đến chùa
một lần trong ngày hái lộc đầu Xuân hoặc chảy
hội Chùa Hương. Họ có thể chỉ đến chùa để làm lễ
cầu siêu khi cha mẹ họ qua đời, hoặc làm đám
cưới. Họ cũng có thể chỉ đến chùa mỗi năm trong
ngày Lễ Vu Lan để báo hiếu cha mẹ. Họ đóng góp
rất nhiều cho chùa như tài chánh, công quả, ấn
tống kinh sách, v.v…nhưng tâm hồn họ hồn nhiên,
vô tư và không bao giờ ray rứt về tương lai và
sự tồn vong của Phật Giáo. Còn hàng cư sĩ thì có
khác. Hàng ngũ Ưu Bà Di, Ưu Bà Tắc năm xưa chính
là các đệ tử của Đức Phật. Họ chỉ khác với Tăng
Già (Sangha) là: Một bên tu tại chùa (ngày xưa
là các tịnh xá) một bên tu tại nhà. Hàng ngũ cư
sĩ này, phần lớn là những nhà trí thức hoặc
những vị nắm giữ những chức vụ quan trọng trong
xã hội. Họ ưu tư tới sự tồn vong và sự thích
nghi của Đạo Phật theo đà tiến triển của nhân
loại. Họ theo dõi các chuyển động tôn giáo nói
chung trên toàn thế giới, họ nhiệt tình với đạo
pháp và hết lòng hộ pháp, hoằng dương chánh pháp.
Những đỉnh cao chói lọi của hàng cư sĩ trong quá
khứ phải kể tới tỷ phú Cấp Cô Độc, vua A Dục của
Ấn Độ, Lương Vũ Đế của Trung Hoa, vua Lý Thái Tổ
của Việt Nam. Và lịch sử Việt Nam cận đại phải
ghi công các bậc cư sĩ lỗi lạc như Phạm Quỳnh,
Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Lê Đình Thám, Nguyễn An
Ninh… đã cùng với chư tăng trong nỗ lực chấn
hưng Phật Giáo vào thập niên 1930 khi ngôi nhà
Phật Giáo gần như đổ nát dưới gót giày xâm lược
của thực dân Pháp.
Vì hàng cư sĩ có
khi chỉ “tu tại gia”,
không gắn
bó với chùa hoặc thầy nào, tức không bị ảnh
hưởng bởi “phe phái” cho nên sự đóng góp của họ
cho ngôi nhà Phật Giáo Việt Nam không bị chướng
ngại. Ngoài ra, số lượng cư sĩ Phật tử trẻ
tại hải ngoại cũng gia tăng đáng kể do ảnh hưởng
của đức Đạt Lai Lạt Ma, Thiền sư Nhất Hạnh, do
khả năng tiếp cận với Phật Giáo qua Anh Ngữ,
Pháp Ngữ…vốn là sở trường, thay vì phải tìm hiểu
Phật Giáo bằng vốn liếng Việt Ngữ rất hạn chế.
Do đó, nói một cách chủ quan, theo tôi, nếu dùng
cách đếm số lượng người “có đi lễ chùa” hoặc
“quy y” để lượng định thực lực của Phật Giáo là
phương pháp hoàn toàn sai lầm. Câu nói “Phật tại
tâm” khiến người Phật tử không câu nệ hình thức,
không khoe khoang rằng “tôi có đạo đây” để cho
người khác biết.
Người Phật
tử cũng như cư sĩ, do ảnh hưởng bởi giáo lý
thanh tịnh cho nên họ đều “keep low profile” tức
ít đeo hình tượng, không ồn ào, hoặc công khai
bày tỏ lý lịch Phật Giáo ở nơi chốn công cộng.
Cho nên gặp một người bình thường ngoài đời,
chúng ta khó có thể biết họ là Phật tử. Trong
khi đó, nếu gặp tín đồ của các tôn giáo khác, dù
chỉ một lần, chúng ta có thể biết ngay gốc tích
tôn giáo của họ.
Còn hệ thống Tăng
Già hải ngoại thì như thế nào? Sau 35 năm, chưa
bao giờ số lượng tăng ni và tự viện gia tăng như
vậy. Theo ước lượng chủ quan của tôi, và căn cứ
vào con số địa chỉ phổ biến, trên toàn thế giới
có trên 300 ngôi chùa Việt Nam. Riêng tại thành
phố San Jose, California có khoảng 20 ngôi chùa
trên địa bàn dân số khoảng 100,000 - mà Phật tử
không phải 100%. Một số “Giáo Hội” và “Tổ Đình”
đã ra đời.
Riêng tại Hoa Kỳ do không thống nhất được lãnh
đạo, do ảnh hưởng bởi các biến động chính trị,
đã có ít nhất bốn “Giáo Hội” đang hoạt động.
Theo tôi dù là “giáo hội” gì đi nữa nó cũng vẫn
chỉ là Sự vận hành trong cái bao la của Lý tức
“Phật Giáo Việt Nam”. Các “Giáo Hội” ví như sóng,
còn “Phật Giáo Việt Nam” ví như nước. Sóng có
sóng to, sóng nhỏ, sóng ngầm, sóng cồn, sóng bạc
đầu, sóng vỗ bờ, sóng thần… sóng nọ đè lên sóng
kia… nhưng thể của nó vẫn là nước. Hàng cư sĩ và
Phật tử đã từng nghe, từng đọc lời dạy của chư
Tăng ni về Lý Sự Viên Dung Vô Ngại Pháp Giới.
Vậy thì có bao giờ Sự tách rời khỏi Lý và ngăn
ngại với Lý không? Nói khác đi, có thể nào “sóng
không phải là nước?”
Luận về thịnh suy
của đạo pháp, chúng ta phải thấy rằng trong Tam
Bảo thì Phật Bảo và Pháp Bảo không bao giờ bị
hoen ố. Chỉ có Tăng Bảo là có thể bị hoen ố.
Sự chia rẽ
giữa các cấp lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất sau Pháp Nạn 1963 khiến Phật
Giáo suy yếu mà hệ quả của nó còn kéo dài cho
tới ngày nay - sau 48 năm - gần nửa thế kỷ -
là bài học cay đắng cho Phật Giáo Việt Nam nói
chung. Chúng ta nên nhớ rằng Phật và Pháp không
bao giờ phá hòa hiệp tăng, chỉ có Tăng là có khả
năng phá hòa hiệp tăng mà thôi. Do đó
sinh mệnh
của Phật Giáo Việt Nam nằm trong tay Tăng ni chứ
không ai khác và cũng không một ai có khả năng
thay thế việc này dù hàng cư sĩ và Phật tử có nỗ
lực như thế nào đi nữa. Bởi một khi “Tăng
Già” đã phân liệt, tan rã thì lấy chỗ đâu để
hàng cư sĩ và Phật tử hộ pháp? Có lẽ lúc đó chỉ
còn cách ôm mặt khóc ròng?
Nói về tầm mức
quan trọng của hòa hiệp tăng, Đức Phật đã dạy
như sau “Này thiện nam tử! Nếu Phật ra đời
chứng đặng vô thượng bồ đề, dầu có hàng đệ tử
hiểu nghĩa đại thừa rất sâu, cũng có hàng bạch y
đàn việt (3) hết lòng kính tin tôn trọng
Phật pháp, mà các đệ tử sanh nhiều tranh tụng
hơn thua phải quấy lẫn nhau, Phật lại nhập niết
bàn, thời chánh pháp chẳng ở lâu nơi đời.
Trái lại
các đệ tử thật hành pháp hòa kính, chẳng hơn
thua phải trái, tôn trọng lẫn nhau, dù Phật nhập
niết bàn nhưng chánh pháp vẫn ở lâu chẳng
diệt.” (4)
Một thực tế không
thể phủ nhận là Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại
đang thực sự lớn mạnh và đóng góp công sức lớn
lao cho nhu cầu phục vụ tâm linh và giữ gìn bản
sắc dân tộc cho khối Phật tử người Việt hải
ngoại. Thế nhưng Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại
đóng góp như thế nào cho ngôi nhà Phật Giáo Việt
Nam nói chung, tức sinh mệnh của Phật Giáo - lại
là một vấn đề vô cùng phức tạp. Nhưng câu hỏi
đặt ra là: vì “vô cùng phức tạp” cho nên chúng
ta chịu bó tay sao? Chúng ta đã từng nghe các
bài pháp, nhờ những bài pháp này một số Thầy đã
cứu vãn sự đổ vỡ của nhiều cuộc hôn nhân, nhiều
gia đình. Quý Thầy chữa “bệnh đổ vỡ” cho người
thì được, nhưng tại sao quý thầy không thể chữa
bệnh cho chính mình? Thật phi lý khi một bác sĩ
chữa bệnh cho người thì được, còn chữa bệnh cho
chính mình lại không được! Sự ngăn ngại là do
“cảnh” (yếu tố ngoại lai) hay do chính tâm ta?
Theo Lục Tổ Huệ Năng thì chẳng có “kỳ động” hay
“phong động” mà chính tâm ta động. Để đóng góp
vào dòng sinh mệnh của Phật Giáo Việt Nam, tất
cả chúng ta, ngoài sự nỗ lực hy sinh cho đạo
pháp không ngừng nghỉ, cũng cần theo lời dạy của
Hương Hải Thiền Sư: “Ngu nhân trừ cảnh bất trừ
tâm”.
Làm sao chúng ta
có thể trừ được “cảnh” đang trùng trùng điệp
điệp diễn từng sát-na? Mà “cảnh” thì nghìn đời
lúc nào cũng giống nhau, vốn sinh ra bởi gốc rễ
Tham-Sân-Si. Vừa trừ được “cảnh” này thì “cảnh”
khác lại hiện ra, bởi vì “Ngưu đầu một mã đầu
hồi” (Đầu trâu vừa vào thì đầu ngựa lại ra,
giống như một sân khấu vậy) (5) Cho nên kẻ “ngu
phu” mới lăng xăng tìm cách “trừ cảnh” mà không
chịu trừ ngay cái “tâm động” tức cái tâm mê muội,
tâm vọng chấp của mình.
Và đọc lại bài kệ
tụng cũng của Ngài Hương Hải Thiền Sư:
Phản văn tự kỷ
mỗi thường quan.
Thẩm sát tư duy
tử tế khan.
Mạc giáo mộng
trung tầm tri thức
Tương lai diện
thượng đổ sư nhan.
Dịch nghĩa:
Mỗi ngày nên xem
xét lại mình.
Suy nghĩ cho kỹ
Đừng tìm tri thức
(đạo) trong mơ mộng.
Sẽ thấy ông thầy
hiện ra trên đầu mình.
Và nghiền ngẫm
lại sự huyền diệu của Lý Sự Vô Ngại Pháp Giới
trong thế giới trùng trùng duyên khởi của Hoa
Nghiêm. Tất cả chỉ là Một nhưng hiện ra muôn
ngàn hình tướng, hợp tan, tan hợp, nhận lấy, bỏ
đi, có đó rồi mất đó, yêu đó rồi ghét đó, tôn
sùng đó rồi mạt sát đó, trong từng sát-na. Tất
cả tưởng chừng như thật nhưng không có gì thật
cả. Chỉ có cái Chân Không, hay Chân Tâm, hay
Phật Tánh là hằng hữu. Hạ thấp xuống một tầng
theo tư tưởng nhập thế thì mọi “danh hiệu, danh
xưng” đều là sắc tướng - đều là pháp hữu vi -
đều tạm bợ - chỉ có “Phật Giáo Việt Nam” là miên
viễn vì Phật Giáo Việt Nam gắn liền với tâm linh,
lịch sử, bản sắc và vận mệnh dân tộc.
Câu hỏi đặt ra ở
đây là
Tăng ni, Phật tử, cư sĩ ở hải ngoại phải làm gì
để tiếp thêm sinh lực cho dòng sinh mệnh Phật
Giáo Việt Nam? Muốn biết phải làm gì, chúng
ta hãy theo dõi những tin tức nóng bỏng về những
chuyển động tôn giáo trên toàn thế giới. Do
chiều hướng suy thoái của các tôn giáo cổ truyền
ở Âu Châu (6) kể cả Bắc Mỹ, Úc Châu… để tìm một
sinh lộ, hiện nay một số tôn giáo đang có những
kế hoạch và âm mưu cải đạo tín đồ Phật Giáo Á
Châu một cách khốc liệt. Trong cuộc phỏng vấn
của báo Le Point (Pháp) đức Đạt Lai Lạt Ma đã
lên án những âm mưu này và coi đó như “Là một
hình thức chiến tranh chống lại các dân tộc khác
và các nền văn hóa khác”.(7) Trong cơn lốc
“chiến tranh tôn giáo nơi thì lộ liễu nơi thì
ngấm ngầm “đó, nếu Phật Giáo suy tàn trên quê
hương mình thì Tăng ni, Phật tử, cư sĩ ở hải
ngoại này có sống cũng như chết".
California 23 Tết Tân Mão 2011
Đào Văn Bình
=================
(1) Từ
Điển này đã đưa lên website Quảng Đức
(2)
Sách tặng không bán. Quý vị có thể hỏi sách tại:
Tu Viện Pháp Vương 715 Vista
Ave. Escondido, CA 92026 ĐT: (760) 739-8063
(3)
Phật tử, thí chủ
(4)
Kinh Đại Bát Niết Bàn, bản dịch của HT. Thích
Tri Tịnh
(5) Kệ
tụng của Thiền Sư Tuyết Đậu
(6)
Nước Pháp được coi như “Trưởng nữ của Giáo Hội”,
theo tài liệu của Wikipedia, thống kê Tháng
Giêng 2007 cho biết chỉ còn 51% người Pháp nhận
mình là Ca-tô Giáo La Mã trong đó chỉ còn phân
nửa tin vào Thượng Đế, 31% là Vô Thần, 9% là Hồi
Giáo, 3% là Ca-tô Giáo Ly Khai (Protestan) và 1%
là Do Thái Giáo: A January 2007 poll found that
51% of the French population describe themselves
as Catholics (and only half of those said they
believed in God), 31% as atheists, 9% as
Muslims, 3% as Protestants and 1% as Jews.
(7) Nguồn tin:
http://www.phattuvietnam.net/5/67/12674.html


|